loading...
Home » , , » NCKHSPUD Lịch sử 9: Nước Văn Lang

NCKHSPUD Lịch sử 9: Nước Văn Lang

Written By: LichsudialiGDCD on Thursday, September 22, 2016 | 10:45:00 PM

loading...
MỤC LỤC

I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI................................................................................ 02
II. GIỚI THIỆU......................................................................................... 03
 1. Thực trạng.......................................................................................... 03

      2. Giải pháp thay thế.............................................................................. 04
 3. Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài.................................. 05
      4. Vấn đề nghiên cứu............................................................................. 05
      5. Giả thuyết nghiên cứu........................................................................ 05
III. PHƯƠNG PHÁP.................................................................................. 05
      1. Khách thể nghiên cứu........................................................................ 05
      2. Thiết kế nghiên cứu........................................................................... 06
      3. Quy trình nghiên cứu......................................................................... 07
      4. Đo lường và thu thập dữ liệu.............................................................. 07
IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ.............................................. 07
      1.Trình bày kết quả................................................................................ 07
      2. Phân tích dữ liệu................................................................................ 08
V. BÀN LUẬN KẾT QUẢ........................................................................ 09
VI.  KẾT LUẬN & KHUYẾN NGHỊ....................................................... 09
      5.1. Kết luận.......................................................................................... 09
      5.2. Khuyến nghị................................................................................... 09
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 10
CÁC PHỤ LỤC CỦA ĐỀ TÀI.................................................................. 11
     Phụ lục 1: Mẫu thiết kế giáo án bài 12: Nước Văn Lang - Lịch sử 6 có vận dụng phương pháp kể chuyện.................................................................................................... 11
     Phụ lục  2: Các câu chuyện được sử dụng trong bài và khai thác kiến thức lịch sử, ý nghĩa của các câu chuyện............................................................................................. 21
     Phụ lục 3: Đề và đáp án kiểm tra sau tác động......................................... 38
     Phụ lục 4: Bảng điểm kiểm tra trước và sau tác động của nhóm đối chứng và  nhóm thực nghiệm......................................................................................................... 42
     Phụ lục 5: Một số bài kiểm tra của học sinh............................................ 46




I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Hai câu thơ mở đầu của chủ tịch Hồ Chí Minh trong sách Lịch Sử nước ta đã một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc dạy, học và hiểu biết về lịch sử. Bởi lẽ, Lịch Sử được xem là một môn khoa học có ưu thế lớn trong việc hình thành nhân sinh quan cách mạng và tư duy sáng tạo cho các em, từ hiểu biết lịch sử sẽ giúp các em rút ra nhiều kinh nghiệm quý giá, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
   Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập rất nhiều đến chất lượng học tập lịch sử của học sinh. Những điểm số, những ví dụ trích dẫn từ những bài thi khiến người ta nghĩ đến điều đầu tiên là: chất lượng dạy và học Lịch sử đang ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Đặc biệt là chương trình lịch sử Việt Nam thời cổ đại do không sử dụng nhiều trong các kỳ thi tuyển sinh, thi học sinh giỏi, vì thế các em thường ít chú tâm, không nắm vững những vấn đề mang tính chất trọng tâm. Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, từ cả hai phía: thầy và trò. Trò không chú tâm học, nội dung kiến thức quá nhiều, hay trùng lặp nên không thể nhớ chính xác, khả năng tự nghiên cứu của học sinh còn hạn chế do hoạt động riêng lẽ, chưa thể hiện được tinh thần hợp tác, chia sẻ kiến thức lẫn nhau, cách khai thác kiến thức lịch sử của học sinh còn hạn chế. Thầy dạy không hết “nội lực”, phương pháp soạn giảng chưa gây được sự hứng thú, chưa liên kết được các sự kiện lịch sử,chưa thể hiện được sự tích hợp nội dung, kích thích hoạt động hợp tác cho các thành viên trong lớp. Chính vì những điều đó đã gây ra những cản trở lớn trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh.
Là người trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn Lịch Sử trong nhiều năm, đặc biệt là chương trình lịch sử Việt Nam thời cổ đại (tương ứng chương trình lịch sử lớp 6) tôi và các đồng nghiệp luôn trăn trở là làm sao có thể giúp học sinh có thể lĩnh hội, chia sẻ kiến thức một cách tốt nhất, làm thế nào để nâng cao hứng thú học tập bộ môn cho học sinh, giúp các em từ những kiến thức lịch sử đã học có thể vận dụng để giải quyết các tình huống trong thực tế. Theo tôi, để làm được điều đó thì trước tiên người thầy cần phải giúp học sinh có những nền tảng vững chắc, sự ham thích học tập từ khi mới bắt đầu biết về lịch sử, tức là đối tượng cần được tác động ban đầu chính là những em học sinh lớp 6_ lứa tuổi có nhiều sự chuyển biến và khá bỡ ngỡ khi vừa chuyển từ môi trường cấp 1 sang cấp 2. Do vậy, người giáo viên cần tìm ra một phương pháp tối ưu nhất giúp các em có thể hợp tác cùng nhau giải quyết các vấn đề lịch sử mang tính khái quát nhất, thông qua đó có thể nắm kiến thức một cách dễ dàng. Chính vì thế, theo tôi, đối với lứa tuổi này thì việc vận dụng phương pháp kể chuyện là phương pháp được xem là tối ưu nhất và đem lại hiệu quả truyền tải kiến thức lịch sử tốt nhất.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này Tôi xin được đưa ra một phương pháp mà bản thân đã áp dụng có hiệu quả đó chính là vận dụng phương pháp kể chuyện trong giảng dạy bài 12: “Nước Văn Lang”, giúp học sinh nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước Văn Lang, qua đó giúp học sinh nắm vững kiến thức, đồng thời rèn phương pháp, kỹ năng kể chuyện, từ đó ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách sâu sắc. Cũng xin được nói thêm, việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong giảng dạy Lịch sử không phải là một vấn đề mới, đây là một vấn đề mà các cấp lãnh đạo Sở Giáo Dục Bình Dương cũng đã khởi xướng, nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Riêng bản thân tôi đã mạnh dạn đẩy mạnh vận dụng phương pháp kể chuyện thực nghiệm đối với bài 12: “Nước Văn Lang” trong chương trình lịch sử 6 do bản thân phụ trách trong năm học 2015- 2016. Kết quả cho thấy rất khả quan, học sinh tiếp thu tốt phần nội dung trọng tâm, năng động hơn trong việc tự mình lĩnh hội và chia sẻ tri thức thông qua các câu chuyện lịch sử.
Do hạn hẹp về thời gian, nên trong đề tài nghiên cứu này tôi chỉ xin được trình bày việc “vận dụng phương pháp kể chuyện trong bài 12: Nước Văn Lang”. Việc làm này đã góp phần giúp học sinh ham thích học tập bộ môn và ngày càng hứng thú hơn trong các giờ học Lịch sử, đồng thời cũng tạo điều kiện cho bản thân tôi mở rộng đề tài để nghiên cứu ứng dụng đối với các bài trong chương trình lịch sử còn lại trong thời gian sắp tới.
Để việc nghiên cứu đảm bảo được tính khách quan, nghiêm túc và chính xác, tôi tiến hành nghiên cứu trên hai nhóm do tôi và đồng nghiệp phụ trách được xem là tương đương nhau: hai lớp 6 của trường THCS Nguyễn Văn Trỗi. Lớp 6A3 là lớp đối chứng do cô Võ Thị Thu Hà đứng lớp giảng dạy, lớp 6A10 là lớp thực nghiệm do bản thân tôi trực tiếp giảng dạy. Thực nghiệm được thực hiện giải pháp thay thế ở tuần 13; tiết 13; Bài 12: “Nước Văn Lang”- Lịch Sử 6, năm học 2015- 2016.
Qua nghiên cứu và thu thập số liệu, kết quả độ chênh lệch điểm trung bình T-test cho kết quả p= 0.0001 < 0.05 cho thấy tác động đã làm tăng hứng thú và kết quả học tập của học sinh một cách rõ rệt.

II. GIỚI THIỆU
1. Thực trạng:
Thông qua việc dự giờ các lớp và tình hình giảng dạy chung của giáo viên khối lớp 6, tôi nhận thấy điểm hạn chế tồn tại tập trung ở phương pháp truyền thụ kiến thức của giáo viên cho học sinh. Học sinh nhàm chán, uể oải, khó tổng hợp các kiến thức cơ bản trong các giờ học lịch sử, không biết cách khai thác kiến lịch sử do giáo viên chỉ sử dụng phương pháp đơn điệu như  thuyết trình, vấn đáp, chưa phát huy được những kỹ năng kể chuyện, khai thác kiến thức lịch sử cho học sinh... Khi học sinh không có hứng thú, không nắm được vững kiến thức sẽ dẫn đến chất lượng dạy và học của bộ môn không cao.
2. Giải pháp thay thế:
Qua thực trạng trên, tôi quyết định chọn đề tài: Vận dụng phương pháp kể chuyện trong giảng dạy bài 12: Nước Văn Lang giúp học sinh nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước Văn Lang” nhằm tìm ra giải pháp để học sinh lớp 6 ham thích, hứng thú, nắm vững kiến thức trọng tâm trong bài 12: Nước Văn Lang - Lịch sử 6, thông qua tiết học lịch sử. Từ đó nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử.
Như chúng ta đã biết, trong các phương pháp dạy học tích cực thì phương pháp kể chuyện là một trong những phương pháp khá phổ biến và đạt kết quả truyền tải kiến thức tốt nhất, đặc biệt là đối với học sinh lớp 6, lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn.
Mục tiêu của phương pháp kể chuyện là giúp học sinh thông qua các câu chuyện, truyền thuyết mà các em đã biết, đã đọc, đã học, tìm ra các ý nghĩa lịch sử bên trong đó, từ đó giúp học sinh khắc sâu kiến thức lịch sử hơn, thêm hứng thú khi tìm hiểu lịch sử.
Mỗi một câu chuyện kể là một kho tàng lịch sử được lưu truyền từ đời này đến đời khác dưới nhiều hình thức khác nhau, rất có giá trị. Dù đó là những câu chuyện có thật hay chỉ là truyền thuyết thì đều mang ý nghĩa lịch sử rất lớn. Việc cụ thể hóa thành truyện kể cũng là một cách giúp người xưa ghi nhớ, lưu giữ nét lịch sử của dân tộc từ xưa đến nay.
Để phương pháp kể chuyện đạt hiệu quả cao, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên và học sinh là:
+ Giáo viên: nắm vững nội dung câu chuyện, cách kể chuyện truyền cảm, cuốn hút, rút ra ý nghĩa bên trong câu chuyện, liên hệ kiến thức lịch sử, phát hiện ra những học sinh có năng khiếu kể chuyện.
+ Học sinh: chuẩn bị trước các câu chuyện mà giáo viên yêu cầu, biết tóm tắt cốt truyện, rèn kỹ năng kể chuyện trước lớp, rút ra ý nghĩa chuyện, liên hệ thực tế.
Các câu chuyện được vận dụng trong bài 12: Nước Văn Lang” bao gồm: Sơn Tinh - Thủy Tinh”, Thánh Gióng”, “Chử  Đồng Tử - Tiên Dung”, “Con rồng cháu tiên”, “Sự tích quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”. Đây là những câu chuyện mà các em học sinh lớp 6 đã được học, được biết đến trong sách kể chuyện trong chương trình ở cấp tiểu học. Qua các câu chuyện giúp lớp học sinh động hơn, học sinh hứng thú hơn khi tìm hiểu và biết được các câu chuyện truyền thuyết đều có liên quan đến những sự kiện, kiến thức lịch sử, từ đó ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách sâu sắc. Thông qua việc vận dụng phương pháp này, học sinh được lôi cuốn vào quá trình học tập một cách tự nhiên làm nâng cao hứng thú học tập, giúp các em giảm bớt được những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập, đem lại niềm vui, sự hứng thú học tập cho các em, từ đó giúp các em nắm vững kiến thức tốt hơn.
3. Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài:
Đề tài nghiên cứu mà tôi thực hiện chủ yếu dựa trên việc vận dụng có hiệu quả bài dạy thực tế trên lớp. Mục tiêu của bản thân là muốn đẩy mạnh việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong giảng dạy các chương trình lịch sử trong các cấp học, đặc biệt là khối lớp 6, đem đến một phương pháp giảng dạy và học tập có hiệu quả nhằm chia sẻ với các đồng nghiệp cũng như góp phần giúp học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi nói riêng và học sinh các trường THCS khác nói chung ngày càng ham thích và nắm vững kiến thức trọng tâm bài 12: “Nước Văn Lang” – trong chương trình Lịch sử 6.
4. Vấn đề nghiên cứu:
Việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong bài 12: Nước Văn Lang”, có góp phần giúp học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước Văn Lang không?
5. Giả thuyết nghiên cứu:
 Có. Việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong bài 12: Nước Văn Lang” đã góp phần giúp học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước Văn Lang.

III. PHƯƠNG PHÁP:
1. Khách thể nghiên cứu:
Tôi lựa chọn trường THCS Nguyễn Văn Trỗi- phường An Phú - thị xã Thuận An - Bình Dương vì đây là trường mà bản thân tôi đã công tác từ khi mới bắt đầu thành lập nên có nhiều điều kiện thuận lợi.
* Giáo viên: Để đảm bảo tính khách quan, chính xác, tôi lựa chọn hai lớp do Tôi và cô Võ Thị Thu Hà phụ trách, hai chúng tôi đều có trình độ tương đương nhau, có lòng nhiệt tình và trách nhiệm trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
1. Vương Trần Huyền Trân - Giáo viên dạy sử lớp 6A10 (lớp thực nghiệm)
2. Võ Thị Thu Hà - Giáo viên dạy sử lớp 6A3 (lớp đối chứng).
* Học sinh: Tôi lựa chọn hai lớp: Lớp 6a10 (Nhóm thực nghiệm), lớp 6A3 (Nhóm đối chứng), vì đó là hai lớp có sự tương đồng về dân tộc, giới tính, trình độ và sỉ số lớp.
Học sinh hai lớp này có thái độ và kết quả học tập là tương đương nhau.


   
Số HS các nhóm
Dân tộc
Tổng số
Nam
Nữ
Kinh
Dân tộc khác
Lớp 6A10
41
23
18
41
0
Lớp 6A3
42
24
18
42
0
2. Thiết kế nghiên cứu:
Chọn hai lớp nguyên vẹn: lớp 6A10 là nhóm thực nghiệm và 6A3 là nhóm đối chứng. Tôi dùng bài kiểm tra 1 tiết học kì I môn lịch sử làm bài kiểm tra trước tác động. Kết quả kiểm tra cho thấy điểm trung bình của hai nhóm có sự khác nhau, do đó chúng tôi dùng phép kiểm chứng T-Test để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số trung bình của 2 nhóm trước khi tác động.
Kết quả:
Bảng 2. Kiểm chứng để xác định các nhóm tương đương


Đối chứng
Thực nghiệm
TBC
6.28
6.31
p =
0.45
p = 0.45 > 0.05, từ đó kết luận sự chênh lệch điểm số trung bình của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa (sự chênh lệch xảy ra là ngẫu nhiên), hai nhóm được coi là tương đương.
Tôi lựa chọn thiết kế 2: Thiết kế kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm tương đương.
Bảng 3. Thiết kế nghiên cứu :
Nhóm
KT trước TĐ
Tác động
KT sau TĐ
Thực nghiệm (6A10)
O1
Vận dụng phương pháp kể chuyện vào quá trình dạy học
O3
Đối chứng
(6A3)
O2
Không vận dụng phương pháp kể chuyện vào quá trình dạy học
O4
Ở thiết kế này, tôi sử dụng phép kiểm chứng T-Test độc lập.  
           
3. Quy trình nghiên cứu :
3.1. Sự chuẩn bị của giáo viên:
Đối với lớp đối chứng, cô Võ Thị Thu Hà vẫn giảng dạy bài 12: Nước Văn Lang” theo phương pháp vấn đáp, diễn giảng bình thường theo phân phối chương trình quy định.
Đối với lớp thực nghiệm do tôi trực tiếp giảng dạy. Đối với tiết này, tôi thiết kế giáo án sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp các phương pháp tích cực khác như vận dụng kiến thức liên môn, vấn đáp, tường thuật,..., thông qua đó, giúp học sinh khai thác kiến thức lịch sử trong bài, từ đó biết liên hệ thực tế. Việc vận dụng phương pháp kể chuyện như đã trình bày ở trên vẫn đảm bảo về thời lượng và phân phối chương trình theo quy định, đồng thời có sự chuẩn bị đồ dùng dạy học kĩ hơn, chu đáo hơn. Sau tiết sẽ sử dụng 25 phút để tiến hành làm một bài test 25 phút thu kết quả.
3.2. Tiến hành thực hiện :
Thời gian tôi tiến hành dạy thực nghiệm bài 12: Nước Văn Lang” theo đúng phân phối chương trình là tuần 13, tiết 13.
Các câu chuyện sử dụng trong bài 12: Nước Văn Lang” bao gồm: Sơn Tinh - Thủy Tinh”, Thánh Gióng”, “Chử Đồng Tử  - Tiên Dung”, “Con rồng cháu tiên”, “Sự tích quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”. Các câu chuyện này sẽ được sử dụng đan xen trong bài, giúp học sinh khai thác được các kiến thức lịch sử quan trọng, từ đó nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta.
Đối với lớp 6A3 (lớp đối chứng) thì cô Hà cũng vẫn dạy bình thường theo phân phối chương trình của bài 12 là tuần 13, tiết 13.
4. Đo lường và thu thập dữ liệu:
Kết quả kiểm tra trước tác động là các điểm số lấy từ bài kiểm tra 1 tiết trong học kì I.
Kết quả kiểm tra sau tác động là điểm bài kiểm tra sau khi tôi đã tiến hành áp dụng phương pháp kể chuyện trong bài 12: Nước Văn Lang” (khảo sát dưới hình thức kiểm tra trắc nghiệm và tự luận).

IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ:
 1. Trình bài kết quả:
Tiến hành kiểm tra và chấm bài.
Sau khi thực hiện dạy xong bài 12: Nước Văn Lang” bằng việc sử dụng phương pháp kể chuyện, tôi ra đề và cho học sinh làm bài kiểm tra. Tôi tiến hành chấm bài kiểm tra theo đáp án đã xây dựng (Nội dung kiểm tra trình bày ở phần phụ lục).
Bảng so sánh điểm trung bình trước tác động:

Nhóm đối chứng
Nhóm thực nghiệm
Điểm trung bình
6.28
6.31
Độ lệch chuẩn
1.17
1.29
Giá trị p của T-test
0.45
  Chênh lệch giá trị
trung bình chuẩn SMD
0.02

Bảng so sánh điểm trung bình sau khi tác động:

Nhóm đối chứng
Nhóm thực nghiệm
Điểm trung bình
6.80
7.82
Độ lệch chuẩn
1.08
1.30
Giá trị p của T-test
0.0001
Chênh lệch giá trị
trung bình chuẩn SMD
0.94

2. Phân tích dữ liệu:
 Kết quả kiểm tra sau tác động cho thấy điểm trung bình của nhóm thực nghiệm là 7.82 cao hơn so với điểm trung bình kiểm tra trước tác động là 1.02. Điều này chứng tỏ rằng chất lượng học tập môn lịch sử của học sinh lớp 6A10 đã được nâng lên đáng kể.
Sau quá trình tác động và kiểm chứng sự chênh lệch giá trị trung bình bằng phép kiểm chứng t-test đã cho ta kết quả p= 0.0001 cho thấy sự chênh lệch điểm khảo sát trung bình giữa trước và sau tác động là có ý nghĩa, tức là sự chênh lệch điểm trung bình khảo sát trước và sau tác động là không xảy ra ngẫu nhiên mà là do tác động của giải pháp thay thế đã mang lại hiệu quả.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn SMD = (7.82-6.80)/1.08= 0.94, so sánh với bảng tiêu chí Cohen cho thấy mức độ ảnh hưởng của giải pháp “vận dụng phương pháp kể chuyện trong giảng dạy bài 12: Nước Văn Lang đã  tác động đến chất lượng học tập của nhóm thực nghiệm là lớn.

V. BÀN LUẬN KẾT QUẢ
Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của nhóm thực nghiệm là TBC= 7.82, kết quả bài kiểm tra tương ứng của nhóm đối chứng là TBC = 6.80.  Độ chênh lệch điểm số giữa hai nhóm là 1.02. Điều đó cho thấy điểm TBC của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác biệt rõ rệt, nhóm được tác động có điểm TBC cao hơn lớp đối chứng.
Chênh lệch giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD = 0.94, điều này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là lớn.
Phép kiểm chứng T-test  điểm  trung  bình  sau tác động của  hai nhóm là  p = 0.0001 < 0.05. Kết quả này khẳng định sự chênh lệch điểm trung bình của hai nhóm không phải là do ngẫu nhiên mà là do tác động.
Đề tài này theo tôi có thể ứng dụng rộng rãi ở các trường THCS ở Thị xã Thuận An nói riêng và các trường THCS trên địa bàn tỉnh Bình Dương nói chung và nếu có sự đầu tư sẽ có thể áp dụng ở cấp cao hơn.
Tuy nhiên để nghiên cứu thành công và đạt kết quả cao hơn nữa theo tôi cần phải có sự cố gắng nỗ lực của giáo viên trong đầu tư soạn giảng, chuẩn bị các thiết bị dạy học. Về phía học sinh yêu cầu các em phải chuẩn bị nghiên cứu tài liệu ở nhà, hoạt động nhóm có hiệu quả, phát huy năng khiếu, kỹ năng kể chuyện, khắc sâu kiến thức lịch sử và biết liên hệ thực tế.

VI. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong bài 12: Nước Văn Lang” đã góp phần giúp cho học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước Văn Lang, từ đó làm tăng sự hứng thú học tập lịch sử đối với học sinh của nhà trường.
 2. Khuyến nghị:
 Đối với các cấp lãnh đạo và nhà trường: Cần quan tâm hơn nữa tới bộ môn Lịch sử, cũng như đời sống của giáo viên bộ môn này để họ có thể tận tâm, nhiệt huyết với nghề. Nhà trường cung cấp và trang bị thêm sách và tài liệu tham khảo liên quan đến nội dung môn học này.
 Đối với giáo viên: Phải không ngừng đầu tư trong soạn giảng từng tiết dạy về nội dung và phương pháp. Phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân, tích lũy kinh nghiệm từ đồng nghiệp và bản thân, biết cách áp dụng hợp lí với trình độ lớp mình giảng dạy.
Với kết quả của đề tài nghiên cứu, tôi rất mong muốn được sự quan tâm, giúp đỡ của các cấp lãnh đạo giáo dục. Những ý kiến đóng góp quý báu, chân thành của quý đồng nghiệp giúp cho tôi hoàn chỉnh đề tài nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Trần Trọng Kim, “Việt Nam Sử Lược”, NXB Văn hóa thông tin, 2002.
-  Đào Duy Anh, “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX”, NXB Khoa học xã hội, 2011.
- Tài liệu tập huấn nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng dự án Việt Bỉ - Bộ GD&ĐT.
- Tài liệu nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng trường THCS Nguyễn Văn Trỗi.
- Sách giáo khoa, sách giáo viên Lịch sử 6 – Nhà xuất bản giáo dục – Bộ GD&ĐT.
- Các tư liệu chuyện kể và clip kể chuyện trên mạng Internet.


MINH CHỨNG – PHỤ LỤC CHO ĐỀ TÀI
Phụ lục 1: Mẫu thiết kế giáo án bài 12: Nước Văn Lang” - Lịch sử 6 có vận dụng phương pháp kể chuyện

BÀI 12: NƯỚC VĂN LANG                                           Tiết PPCT: 13

Ngày dạy: 10/11/2015
Lớp dạy: 6A10

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
HS sơ bộ nắm được :
- Những điều kiện cơ bản hình thành nhà nước Văn Lang.
- Nhà nước Văn lang thành lập như thế nào và được tổ chức ra sao.
- Nhà nước Văn Lang tuy còn sơ khai nhưng nó là một tổ chức quản lí đất nước bền vững, đánh dấu giai đoạn mở đầu thời kì dựng nước.
2. Tư tưởng:
Bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc và tình cảm cộng đồng. Tự hào về những truyền thống vẻ vang của tổ tiên và ông cha ta.
3. Kĩ năng:
Kĩ năng vẽ sơ đồ, kỹ năng kể chuyện, phân tích và rút ra ý nghĩa câu chuyện, liên hệ kiến thức lịch sử.

B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH:
1. Giáo viên:
- Bản đồ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
- Tranh ảnh hiện vật phục chế
- Sơ đồ tổ chức nhà nước.
- Chuẩn bị các câu chuyện “Sơn Tinh – Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”, “Chử Đồng Tử - Tiên Dung”, “Con Rồng cháu tiên”, “Sự tích quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”.
2. Học sinh: đọc và trả lời các câu hỏi trong SGK.
- Chuẩn bị các câu chuyện “Sơn Tinh – Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”, “Chử Đồng Tử - Tiên Dung”, “Con Rồng cháu tiên”, “Sự tích quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”. Tóm tắt và nêu ý nghĩa các câu chuyện.

C. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP:
1. Kiểm tra kiến thức cũ:
Câu hỏi: Em hãy nêu những nét mới về kinh tế, xã hội của cư dân Lạc Việt?
2. Giảng kiến thức mới:
*GTB: Những chuyển biến lớn trong sản xuất và xã hội đã dẫn đến sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người dân Việt Cổ- sự ra đời của nhà nước Văn Lang, mở đầu cho một thời đại mới của dân tộc. Để biết được nhà nước Văn Lang được thành lập và tổ chức như thế nào, chúng ta sẽ tìm hiểu Bài 12: “Nước Văn Lang”.
HOẠT ĐỘNG THẦY VÀ TRÒ
NỘI DUNG
Hoạt động 1

GV cho HS quan sát trên lược đồ, giới thiệu cho HS vùng đồng bằng ven sông Hồng, sông Cả, sông Mã. Đây là khu vực có người Việt cổ tập trung khá đông đúc và sớm phát triển. (Vận dụng kiến thức liên môn với môn Địa Lý, giới thiệu về vùng đồng bằng sông Hồng, giải thích cho HS với những điều kiện thuận lợi về đất đai, nguồn nước, vì thế cư dân từ xưa đã tập hợp ở đây từ rất sớm. Đồng bằng sông Hồng còn được xem là cái nôi của lịch sử loài người.)
GV: Vào thế kỉ VIII-VII TCN ở vùng đồng bằng ven các sông lớn thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay có gì thay đổi?
HS: Vào thế kỉ  VIII-VII TCN ở vùng đồng bằng ven các sông lớn:
- Vùng sông cả (Nghệ An)
- Sông Mã  (Thanh Hóa )
- Vùng ven sông Hồng thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay.
dần dần hình thành những Bộ lạc lớn có cùng tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế làm cho sản xuất ngày càng phát triển.

GV: Trong các chiềng, chạ xuất hiện hiện tượng gì?
HS: Một số người ….nô tì.
GV: Chính điều đó đã làm cho xã hội nảy sinh điều gì?
HS: Sự mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu sắc.
GV liên hệ chuyện kể “Chử Đồng Tử - Tiên Dung”
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
Cuối cùng GV chốt: trong xã hội lúc bấy giờ đã bắt đầu có sự phân chia người giàu – người nghèo.


GV: Việc mở rộng nghề nông trồng lúa nước ở vùng đồng bằng ven sông lớn có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nông trồng lúa nước như đất phù sa màu mỡ, đủ nước tưới quanh năm từ đó cây trồng phát triển tốt cho năng suất cao, đảm bảo cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó cũng có không ít khó khăn rất lớn làm ảnh hưởng đến nền sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân Lạc Việt.
GV: Đó là những khó khăn gì?
 HS trả lời theo suy nghĩ
GV: Khó khăn: Lũ lụt thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng đến sản xuất và cuộc sống (đặt biệt ở sông Hồng).
GV liên hệ truyền thuyết “Sơn Tinh- Thủy Tinh”
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV: Theo em, truyện Sơn Tinh Thủy Tinh nói lên hoạt động gì của nhân dân ta thời đó?
HS: Hoạt động chống lũ lụt, bảo vệ mùa màng.
GV: Bấy giờ đã xảy ra lũ lụt và hằng năm nhân dân ta phải đắp đất để ngăn nước chống lũ lụt để bảo vệ mùa màng và xóm làng. Việc làm này một người không thể nào làm được mà đòi hỏi phải có sự đoàn kết của nhân dân Lạc Việt  mới có thể tạo ra những con đê ngăn chặn lụt lội, thiên tai.
GV: Để làm được việc này, phải làm như thế nào?
HS: Cần phải có người….bảo vệ mùa màng.

GV: GV cho HS Q.sát H 31, 32 SGK/34 của Bài 11. Lưỡi giáo, dao găm gọi chung là gì? (Vũ khí).
GV: Sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí chứng tỏ điều gì? (Có giặc ngoại xâm và xung đột giữa các bộ lạc)
GV: câu chuyện nào của nhân dân ta thời xưa nói về hoạt động chống ngoại xâm? (Thánh Gióng).
GV liên hệ truyện “Thánh Gióng”
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV giảng: Các loại vũ khí thời Đông Sơn gồm các loại mũi giáo đồng và dao găm đồng. Sự xuất hiện nhiều loại vũ khí chứng tỏ sự phát triển của nghề săn bắt. Nhưng chủ yếu cho chúng ta thấy trong xã hội đã có tranh chấp, xung đột giữa các bộ lạc và giữa người Lạc Việt với các bộ tộc khác.
→ Tự bảo vệ khi có xung đột và xâm lược.
GV: Để giải quyết các xung đột và chống ngoại xâm, đòi hỏi cư dân người Việt cổ phải làm gì?
HS: Cùng nhau đoàn kết, có người chỉ huy, đứng đầu.


GV: Dựa trên những hoàn cảnh phức tạp đó, Nhà nước Văn Lang ra đời.
GV: gọi 1 HS tóm lại những hoàn cảnh đưa đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang.
HS:
- Xã hội đã có sự phân chia người giàu, người nghèo.
- Nghề nông và cuộc sống ở các làng bản bị lũ lụt đe dọa.
- Giữa các vùng, các bộ lạc đã xảy ra tranh chấp, xung đột hoặc bị giặc bên ngoài đe dọa.
GV: Muốn có an ninh, yên ổn làm ăn, phải có nhà nước => Sự ra đời của nhà nước Văn Lang.

Hoạt động 2
GV: Bộ lạc Văn Lang sống ở đâu?
HS: Cư trú…hùng mạnh nhất.
GV xác định trên lược đồ:
-         Vùng sông Cả (Nghệ An)
-         Sông Mã  (Thanh Hóa )
- Đặc biệt khu vực Sông Hồng: từ Ba Vì (Hà Tây) đến Việt Trì (Phú Thọ) nơi Bộ lạc Văn Lang sinh sống là phát triển hơn cả, Vì sao? Vì: Ở đây có Làng Cả (Việt Trì - Phú Thọ) chuyên làm nghề đúc đồng nên nền kinh tế sớm phát triển hơn cả, dân cư tập trung đông đúc. Nhờ vậy tù trưởng bộ lạc Văn Lang ở đây được các tù trưởng ở các vùng khác ở xung quanh tôn trọng và ủng hộ.
GV: Dựa vào thế mạnh của mình thủ lĩnh bộ Lạc Văn Lang đã làm gì?
HS: Đã hợp nhất các bộ lạc khác trong vùng thành một liên minh Bộ lạc (1 nước). Gọi là nhà nước Văn lang.
GV: Nhà nước Văn lang ra đời vào thời gian nào? Đứng đầu là ai? Đóng đô ở đâu?
HS: Thế kỉ  VII TCN, thủ lĩnh Bộ Lạc Văn Lang đứng đầu nhà nước, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Bạch Hạc.
GV giải thích :
- Đặt tên nước là Văn Lang (tên của Bộ lạc gốc)
- Hùng là mạnh, Vương là vua (Là đất nước Hùng mạnh )





GV: Truyền thuyết nào phản ánh cội nguồn dân tộc của ta? (Con rồng cháu tiên)
GV liên hệ truyền thuyết Con rồng cháu tiên”.
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV: Sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ nói lên điều gì?
HS: Nêu theo suy nghĩ của mình.
GV: Truyền thuyết nói về việc 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên Vùng cao đã tôn thờ người anh Cả lên làm vua, hiệu Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang. Sự ủng hộ của mọi người và vị trí của nước Văn Lang ở vùng cao. → Đây là một cách phản ánh quá trình hình thành của nhà nước Văn Lang với ý nghĩa đại diện cho cả cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta.
GV mở rộng: Ngoài các câu chuyện kể nói trên, em hãy cho biết còn có những câu chuyện nào nói về sự thành lập và tổ chức của Nhà nước Văn Lang?
GV liên hệ truyền thuyết “Quả dưa hấu”  và “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”.
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV: Tất cả các câu chuyện, truyền thuyết kể trên đều phản ánh sự tồn tại trong thực tế Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc với những nét văn hóa mang đậm tính dân tộc, được lưu truyền đến ngày nay thông qua các mẫu chuyện lịch sử.
Vậy, Nhà nước Văn Lang đã được tổ chức như thế nào? Chúng ta bước sang tìm hiểu phần 3.
Hoạt động 3

Thảo luận nhóm:
Dãy 1: Tìm hiểu về sơ đồ và cách tổ chức của Nhà nước Văn Lang.
Dãy 2: Nhận xét về tổ chức Nhà nước Văn Lang.
Sau đó, GV sẽ gợi ý các câu hỏi giúp HS khai thác tư liệu và hoàn thành sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang.
-> Nhận xét tổ chức Nhà nước.
Các câu hỏi:
? Đứng đầu bộ máy nhà nước ở trung ương là ai? (Hùng Vương)
? Giúp việc cho Hùng Vương là những ai? Thế nào là Lạc Hầu, Lạc Tướng?
(+ Lạc hầu (Tướng văn): chỉ những người thuộc tầng lớp quý tộc có chức vụ cao cấp, giúp vua Hùng trông coi việc chính sự.
+ Lạc tướng (Tướng võ): chỉ những người thuộc tầng lớp quý tộc, được vua Hùng cho đứng đầu các Bộ.)
? Khi Hùng Vương lên ngôi đặt tên nước Văn Lang, chia cả nước làm mấy bộ?
(Chia nước làm 15 bộ, mỗi bộ gồm nhiều chiềng chạ, đứng đầu bộ là Lạc tướng. Các bộ đều chịu sự cai quản của vua.)
- GV giới thiệu 15 bộ.
? Dưới Bộ có các cơ quan nào? Ai đứng đầu?
(Chiềng, chạ: đứng đầu là Bồ Chính)
? Giúp việc cho Bồ chính còn có ai?
(Giúp việc cho Bồ chính ở các chiềng chạ có những người già, có uy tín và đầy kinh nghiệm.)
GV cho HS xem sơ đồ Nhà nước Văn Lang hoàn chỉnh và tóm lại (HS ghi bài)
(Sơ đồ được cụ thể hóa trong phần phụ lục 2 của đề tài nghiên cứu này)


GV trình bày: Nhà nước Văn Lang được chia làm 3 cấp:
+ Trung ương: do Hùng Vương đứng đầu có Lạc hầu, Lạc tướng giúp.
+ Bộ là cơ quan trung gian giữa trung ương và địa phương do Lạc tướng đứng đầu.
+ Địa phương là các chiềng, chạ do Bồ chính đứng đầu.
GV: nhận xét sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang?
(- Vua đứng đầu nắm mọi quyền hành, cha truyền con nối.
- Tổ chức còn đơn giản, chưa có luật pháp, quân đội nhưng nó là một tổ chức quản lí đất nước bền vững, đánh dấu giai đoạn mở đầu thời kì dựng nước.)





GV: Nhà nước Văn Lang chưa có luật pháp và quân đội. Vậy khi có việc xảy ra hoặc có giặc ngoại xâm thì sẽ làm sao?
GV: Về những việc xảy ra tùy theo việc đều có người giải quyết nhưng người có quyền hành cao nhất là Hùng Vương. Khi có chiến tranh sẽ huy động các thanh niên trai tráng khỏe mạnh trong các chiềng, chạ tập hợp lại cùng chiến đấu.
GV tóm lại: Nhà nước Văn Lang tuy đơn giản nhưng đã là tổ chức chính quyền cai quản đất nước (đã có các cấp từ trung ương cho đến làng xã, có người chỉ huy cao nhất và có người chỉ huy từng bộ phận).
GV: Hùng Vương là người có công dựng nước, để tưởng nhớ công ơn đó người dân đã làm gì?
HS: - Lập đền thờ vua Hùng (H.35/SGK)
-         Làm giổ tổ Hùng Vương
-         Đặt tên cho các con đường,các ngôi trường (Trường THPT chuyên Hùng Vương)
GV: Ngày giỗ tổ Hùng Vương là ngày nào?
HS: 10/3 âm lịch.
GV yêu cầu HS đọc 2 câu thơ nói về ngày giỗ tổ Hùng Vương
HS: “Dù ai đi ngược về xuôi
         Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 – 3”
GV: Bác Hồ đã căn dặn đều gì nhân dịp về thăm đền vua Hùng (Phú Thọ)? Cho biết ý nghĩa của câu nói đó?
HS: “Các vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
GV: Vua Hùng là người dựng nên nhà nước Việt Nam đầu tiên. Trách nhiệm của thế hệ sau, đặc biệt là thế hệ trẻ của chúng ta, phải ra sức học tập, cống hiến sức trẻ cho quê hương đất nước, xây dựng đất nước tươi đẹp, giàu mạnh và văn minh.
1. Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào?


























- Hình thành những bộ lạc lớn.


















- Mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu sắc.









































- Nhu cầu trị thủy, bảo vệ mùa màng.































- Nhu cầu giải quyết xung đột, chống ngoại xâm.















→ Nhà nước Văn Lang ra đời.

2. Nước Văn Lang thành lập






























- Vào khoảng thế kỉ VII TCN, thủ lĩnh Văn Lang đã hợp nhất các bộ lạc thành một nước:
+ Đặt tên nước Văn Lang
+ Tự xưng là Hùng Vương
+ Đóng đô ở Bạch Hạc (Phú Thọ)















































3. Nhà nước Văn Lang được tổ chức như thế nào?








































* Sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang (HS vẽ sơ đồ trong SGK)

















* Nhận xét:
- Còn đơn giản.
- Chưa có luật pháp và quân đội.
-> Đánh dấu giai đoạn mở đầu của thời kì dựng nước.
* GV tóm lại: Sự ra đời của Nhà nước Văn Lang có ý nghĩa rất quan trọng đối với người Việt Nam. Người Việt Nam đã có một nhà nước riêng do mình thành lập và làm chủ, không còn là những làng bản, chiềng chạ riêng lẻ, không có quan hệ gì với nhau.
3. Củng cố bài giảng: Trò chơi giải ô chữ.
4. Hướng dẫn học tập ở nhà:
- Học bài, Vẽ sơ đồ bộ máy nhà nước vào tập.
- Đọc trước Bài 13: “Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn lang”.
D. RÚT KINH NGHIỆM:
………………………………………….......................................…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………........................


                                                                                  DUYỆT CỦA BGH
Ngày 05 Tháng 11 Năm 2015





Phụ lục 2: Các câu chuyện được sử dụng trong bài và khai thác kiến thức lịch sử, ý nghĩa của các câu chuyện.

SƠN TINH THỦY TINH

* Truyện kể:

Thuở ấy, vua Hùng Vương thứ 18 có một cô con gái rất xinh. Vua muốn chọn chàng rể vừa hiền, vừa tài, nên truyền lệnh mở hội kén rể. Trai tráng khắp nơi nô nức kéo về kinh đô thi tài. Đã mấy ngày qua, biết bao nhiêu chàng trai tuấn tú, võ nghệ tài ba lần lượt ra trổ tài, nhưng vẫn chưa được nhà vua ưng chọn. Vua đã hơi thất vọng thì bỗng nhiên có hai người cùng một lúc tiến vào xin thi tài, một người tên là Sơn Tinh, còn người kia tên là Thủy Tinh. Vua truyền cho hai người cùng trổ tài. Lời vua truyền vừa dứt, Thủy Tinh đã vội ra oai, gây sấm sét đùng đùng, mây tuôn gió nổi, bốn bề nước đổ, trời đất tối tăm. Cả một vùng đất rung chuyển, thật là rùng rợn. Đến lượt Sơn Tinh liền khoan thai vẫy tay hóa phép dời núi, đổ cây, phá rừng vung đất chống lại trận nước dâng lên của Thủy Tinh. Sơn Tinh giơ gậy thần chỉ bốn phương, lập tức cảnh vật trở lại bình thường, trời trong, sông lặng, cây cỏ xanh tươi.
Vua Hùng thấy hai người cùng tài giỏi không biết nên gả con gái cho ai. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi phán rằng:
- Sơn Tinh và Thủy Tinh đều tài giỏi cả. Nhưng muốn lấy công chúa thì phải có lễ vật ra mắt ta! Vậy rạng sáng mai, ai đem của lạ vật quý đến trước, ta sẽ gả con gái cho người ấy!
Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến dâng vua, lễ vật của Sơn Tinh có voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao và bao nhiêu vàng bạc, châu báu. Vua Hùng giữ lời hẹn gả công chúa cho Sơn Tinh.
Thủy Tinh cũng đem ngọc châu, đồi mồi, san hô, bao giống tôm cá quý đến dâng vua. Nhưng Thủy Tinh đến chậm quá. Sơn Tinh đã rước công chúa về núi mất rồi.
Thủy Tinh không lấy được công chúa nổi giận dâng nước lên bao vây núi. Suốt ngày đêm, đất trời đen tối, mưa gió mịt mùng, đồng ruộng, đất đai ngập nước.
Sơn Tinh bình tĩnh tìm cách chống trả lại Thủy Tinh. Nước dâng cao bao nhiêu thì Sơn Tinh lại hóa phép làm cho núi dâng cao lên bấy nhiêu. Quân của Sơn Tinh từ trên núi ném đá tới tấp xuống nước làm cho quân lính của Thủy Tinh chết rất nhiều. Xác cá, xác ba ba, thuồng luồng… nổi đầy mặt nước.
Thủy Tinh đánh mãi vẫn không thắng được Sơn Tinh. Cuối cùng Thủy Tinh đành rút nước, lui quân về. Tuy vậy Thủy Tinh vẫn không quên được chuyện xưa. Hàng năm cứ vào khoảng tháng bảy, tháng tám là Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh Sơn Tinh.

* Phân tích truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh:
- Chi tiết thể hiện hoạt động chống lũ lụt của nhân dân ta: “Nước dâng cao bao nhiêu, núi cao lên bấy nhiêu” (Đắp đê phòng lũ lụt).
- Chi tiết: “Hàng năm, Thủy Tinh đều mang quân đánh Sơn Tinh”: thể hiện thời gian thường xuyên xảy ra các mùa lũ -> hoạt động đắp đê bảo vệ mùa màng của ông bà ta.
- Sơn Tinh: Đây là nhân vật tượng trưng cho khát vọng và khả năng khắc phục thiên tai của nhân dân ta thời xưa.
- Thủy Tinh: Đây là nhân vật tượng trưng cho mưa bão, lũ lụt thiên tai uy hiếp cuộc sống của con người.
* Ý nghĩa truyện: phản ánh quá trình đoàn kết của nhân dân ta chống lại thiên tai, lũ lụt, bảo vệ mùa màng và sự bình yên cho con người.
- Giải thích nguyên nhân của hiện tượng lũ lụt hàng năm xảy ra ở đồng bằng Bắc Bộ.
- Thể hiện sức mạnh và ước mơ chiến thắng thiên nhiên của người Việt Cổ.
- Suy tôn ca ngợi công lao dựng nước của các vua Hùng.
- Xây dựng được những hình tượng nghệ thuật kì ảo mang ý nghĩa tượng trưng và khái quát cao.


TRUYỆN THÁNH GIÓNG

* Truyện kể:

scan806'

Truyện kể rằng vào thời Hùng Vương có một người đàn bà đã cao tuổi nhưng chưa có một mụn con, bà phải sống một thân một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà sửng sốt kêu lên: - “Ôi! Bàn chân ai mà to thế này!”.
Bà thấy lạ nên đưa bàn chân ướm thử vào dấu chân lạ. Một thời gian sau bà bỗng có mang. Tận 12 tháng sau, bà sinh được một đứa con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không biết nói biết cười gì cả.
Ngày ấy có giặc Ân kéo vào cướp nước ta. Giặc Ân rất hung hăng tàn ác, cầm đầu là một viên tướng tên gọi Ân Vương, hình dung cổ quái dữ tợn. Chúng nó đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, giết người cướp của đến đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất trận, nhưng đánh không nổi. Vua Hùng lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp nơi trong nước tìm bậc tướng tài để giúp vua cứu nước.
Một hôm sứ giả đi đến làng chú bé Gióng. Nghe tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người tài, bà mẹ Gióng đang ru con, liền bảo đùa con rằng:
- Con ơi! Con của mẹ chậm đi chậm nói là vậy, thì biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được đây!
Không ngờ Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng:
- Mẹ cho gọi sứ giả vào đây cho con!
Nói xong lại im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ, vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người đổ tới, ai nấy cho là một sự lạ. Sau cùng một người nói:
- Ta cứ đi mời sứ giả đến xem thử nó muốn cái gì.
Khi sứ giả của nhà vua bước vào nhà nhìn thấy chú bé Gióng liền hỏi rằng:
- Mày là đứa trẻ lên ba mới học nói, mày định mời ta đến để làm gì?
Gióng trả lời rất chững chạc:
- Ông hãy về bảo với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi quân giặc.
Ai nấy đứng nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về tâu vua. Nghe nói, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời xin của chú bé. Mọi thứ rèn xong nặng không thể tưởng tượng nổi. Hàng chục người mó vào thanh gươm mà không nhúc nhích. Vua Hùng phải cho hàng ngàn quân sĩ tìm mọi cách chở đến cho chú bé Gióng.
Khi được tin quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến làng, mẹ Gióng sợ hãi chạy về bảo con:
- Con ơi! Việc nhà vua đâu phải là chuyện chơi. Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài bãi, biết làm thế nào bây giờ?
Nghe nói thế, Gióng vụt ngồi dậy, nói:
- Việc đánh giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!
Mẹ vội thổi cơm cho con ăn, nhưng nấu lên được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần ăn một nồi cơm thì Gióng lại lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn thì con lại càng lớn như thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên khỏe mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo, khoai, trâu, rượu, hoa quả, bánh trái đến đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu, Gióng ăn vợi hết bấy nhiêu, mà vẫn đòi ăn không nghỉ.
Sau đó, Gióng lại bảo mẹ:
- Mẹ kiếm vải cho con mặc.
Dân làng lại đua nhau mang rất nhiều vải lụa tới may áo quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể Gióng lớn vượt một cách kỳ lạ, áo quần vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn, lại phải mang vải lụa tới để chắp nối thêm. Không mấy chốc đầu Gióng đã chạm nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã hì hục khiêng được ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái, người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng sấm:
- Ta là tướng của nhà Trời!
Thế rồi Gióng mặc giáp sắt, đội nón sắt, tay cầm gươm múa quanh mấy vòng. Đoạn từ biệt mẹ và dân làng, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt bỗng chồm lên, phun thẳng ra đàng trước một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân, ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng chục con sào, rung chuyển cả trời đất. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn trại giặc bấy giờ đang đóng la liệt cả mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói bụi mịt mù, tiếng la hét kêu khóc như ri.
Nhưng tướng giặc Ân Vương vẫn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc nằm ngổn ngang đầy rừng. Bỗng chốc gươm gãy. Không bối rối, Gióng thuận tay nhổ những bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng trụ lại theo lệnh chủ tướng. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tẩu tán khắp nơi, Ân Vương bị quật chết tan xác. Bọn tàn binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói nghiền chúng lại. Không đầy một buổi, Gióng đã trừ xong nạn nước. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.
Để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê và phong làm Phù Đổng thiên vương.
Tới tận ngày nay chúng ta còn thấy những dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc cho đến Sóc Sơn, dân gian truyền nhau rằng đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng. Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy. Loài tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là ngà (hay đằng ngà).

* Phân tích truyện và ý nghĩa truyện Thánh Gióng:
Truyện Thánh Gióng quả thật có rất nhiều ý nghĩa mà ý nghĩa đầu tiên phải kể đến đó là lòng yêu nước thiết tha, sâu đậm của mỗi người con xứ sở.
Truyện Thánh Gióng có thể được xem như một cách mà ông cha ta tổng kết lịch sử các cuộc chiến thắng chống ngoại xâm thời cổ đại. Nét đẹp của truyện ngày một được tô đậm qua từng lời truyền miệng của nhân dân để rồi qua thời gian, truyện trở nên đẹp trong từng chi tiết và ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng: ông Thánh là hình ảnh tượng trưng cho những người dân thuở ấy với những nét đẹp nhất, tiêu biểu nhất, cao quý nhất của những người con yêu nước.
Đứa bé mới ngày nào còn nằm trong nôi, hôm nay đã lãnh trọng trách đánh giặc. Khi lãnh trọng trách đánh giặc, cứu nước thì vừa vươn vai một cái, nó đã hóa thành một ông Khổng Lồ, to lớn và khỏe mạnh phi thường. Thế là dân làng đem cà mắm thật nhiều, Gióng ăn cà mắm lại càng lớn mạnh hơn nữa, có sức nhổ cả một bụi tre để làm vũ khí đánh giặc. Lột cái dáng vẻ thần thoại ra thì ta có thể nhận thấy ngay rằng, sức mạnh này là sức mạnh của toàn dân, sức mạnh của lòng người – của lòng yêu nước – một sức mạnh lớn lao, phi thường đang lớn lên cực kỳ nhanh chóng mà không gì, không một thế lực hắc ám nào có thể đánh bại. Và tư tưởng “toàn dân chung sức, đồng lòng đánh giặc” và cũng là một lối đánh truyền thống nhưng không bao giờ lỗi thời qua thời gian, năm tháng đã được thể hiện rất rõ tại đây. Mỗi con người đất Việt tuy bình thường trông có vẻ nhỏ bé nhưng đến khi đất nước lâm nguy thì đều trở nên vĩ đại, phi thường, đều đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Chắc hẳn nhân dân sáng tác và trau dồi truyện thánh Gióng muốn nói rằng dân tộc ta một khi đứng trước một nhiệm vụ lịch sử nặng nề, tưởng chừng như quá sức gánh vác của mình, thì, bởi sẵn lòng yêu nước nồng nàn, bởi biết chung sức với nhau, bởi nhiều mưu trí và sáng tạo mà vươn lên mau chóng cho kịp nhiệm vụ được giao. Thật vậy, suốt mấy ngàn năm sau, Văn Lang, Âu Lạc đã dám đánh và thắng những kẻ xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp mấy chục lần.
Giặc tan, vị anh hùng làng Gióng không về triều lĩnh thưởng mà giục ngựa lên núi Sóc, về trời, hẹn khi nào đất nước lâm nguy thì sẽ trở lại giúp dân đánh quân xâm lược. Bằng cử chỉ cao quý này, truyện muốn ca ngợi một chủ nghĩa yêu nước hoàn toàn trong trắng không một hạt bụi danh vị hay một chút tư lợi cá nhân, ca ngợi một tinh thần phục vụ vô điều kiện cho Tổ quốc, cho đồng bào. Ngoài ra, đứng trên phương diện nhân vật Gióng, ta cũng có thể cảm nhận được một góc khác trong tấm lòng của người anh hùng mà sâu xa hơn là chính mỗi người dân xứ sở: bảo vệ đất nước là trách nhiệm, là bổn phận của mỗi người dân và độc lập, tự chủ chính là phần thưởng lớn nhất, cao quý nhất mà không ai có thể ban cho ngoài chính bản thân mỗi người.


CHỬ ĐỒNG TỬ - TIÊN DUNG

* Truyện kể:

http://p.vatgia.vn/pictures_fullsize/woy1420686305.jpg

Thời Hùng Vương thứ ba có một người con gái nhan sắc như tiên, đặt tên là Tiên Dung. Tiên Dung rất đẹp, song tự nguyện không lấy chồng, chỉ ham thích phong cảnh, thường đi du lịch khắp nơi trong nước. Được vua cha nuông chiều, mỗi năm vào độ mùa xuân Tiên Dung ngồi thuyền du ngoạn, có khi ra tận ngoài biển, lắm lúc mê cảnh đẹp quên về.
Thuở ấy, ở làng Chử Xá (thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay) có người tên là Chử Cù Vân và con trai tên là Chử Đồng Tử. Hai cha con thương mến nhau rất thắm thiết. Nhà họ Chử vốn nghèo lại càng thêm sa sút sau một trận cháy, trong nhà chỉ còn mỗi một chiếc khố. Hai cha con phải thay phiên nhau mà mặc mỗi khi ra ngoài. Khi người cha bị bệnh nặng sắp mất, dặn con giữ khố lại, còn cứ chôn mình xác trần. Chử Đồng Tử không nỡ để cha chết trần truồng, dùng chiếc khố độc nhất liệm cha mà đem chôn. Từ đó Chử Đồng Tử không có gì che thân, đợi đến đêm mới đi ra câu cá, ban ngày thì dầm nửa người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn.
Một hôm, thuyền rồng chở công chúa Tiên Dung đến vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy cờ quạt, người hầu rầm rộ, Chử Đồng Tử hoảng sợ, chui vào bụi lau ở bãi cát bờ sông, nấp mình xuống đó rồi phủ cát lên che người.
Thuyền rồng ghé vào bờ, Tiên Dung lên chơi trên bãi, thấy cảnh thanh tú, sai người hầu quây màn ở bụi lau để làm nơi cho mình tắm, đúng ngay vào chỗ Chử Đồng Tử nấp. Đến khi Tiên Dung xối nước, cát trôi để lộ thân hình trần truồng của người trai lạ. Nàng ngạc nhiên hỏi chuyện mới rõ tình cảnh của Chử Đồng Tử, nghĩ ngợi bảo chàng:
- Tôi đã định không lấy chồng, nay tình cờ gặp anh thế này, chắc do là trời xui khiến. Anh dậy mà tắm rửa đi!
Rồi Tiên Dung lấy quần áo trao cho Chử Đồng Tử mặc để cùng xuống thuyền ăn uống. Người ở trên thuyền hiểu chuyện, cho là một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Tiên Dung nghĩ là duyên tiền định, đòi kết làm vợ chồng. Chử Đồng Tử cho là phận mình thấp hèn, không dám nhận lời, Tiên Dung nói:
- Đây là do trời tác hợp, sao anh lại từ chối?
Rồi hôn lễ giữa nàng công chúa với anh chàng Chử Đồng Tử cử hành ngay trên sông. Tin đưa về kinh đô, Hùng Vương giận dữ nói với triều thần:
- Con gái ta không kể danh tiết, hạ giá lấy kẻ nghèo hèn, còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữa. Từ nay mặc cho nó muốn đi đâu thì đi, không được về cung.
Tiên Dung biết vua cha tức giận, sợ không dám về, bèn cùng chồng mở chợ ở Hà Thám, đổi chác với dân gian. Lâu dần mở mang thành chợ lớn, gọi là chợ Hà Thám, có phố xá khách buôn nước ngoài lui tới giao thương ngày càng phồn thịnh.
Một hôm có khách buôn bán đến rủ Tiên Dung đem vàng cùng ra nước ngoài mua hàng về bán sẽ có lãi to. Tiên Dung mới bảo chồng rằng:
- Chúng ta lấy nhau là do trời định, cơm áo cũng do trời cho. Vậy việc này âu cũng là trời xui khiến, chúng ta nên làm.
Chử Đồng Tử bèn cùng khách buôn nọ ra đi. Đến một hòn núi giữa biển gọi là núi Quỳnh Tiên, thuyền ghé lấy nước ngọt, Chử Đồng Tử vui chân trèo lên cái am nhỏ trên núi gặp một đạo sĩ trẻ tên là Phật Quang. Chuyện trò ý hợp tâm đầu, Chử Đồng Tử theo lời Phật Quang giao vàng nhờ khách buôn đi mua hàng còn mình thì ở lại đây học đạo.
Đến khi thuyền trở lại, Chử Đồng Tử theo về đất liền. Khi từ giã, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cái gậy, một cái nón và bảo:
- Đây là vật thần thông.
Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán để cùng chồng đi tìm thầy học đạo.
Một hôm trời tối, hai vợ chồng đi đã mệt mà chưa thấy nhà cửa đâu, mới dừng bước lại, cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ. Vào khoảng nửa đêm, tự nhiên chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu ngọc và kho tàng đầy đủ của cải, màn gấm chiếu hoa, không thiếu một thứ gì. Lại thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xum xít quanh hai vợ chồng.
Sáng hôm sau, dân ở quanh vùng đều lấy làm kinh dị, mang hương hoa thực phẩm đến xin làm tôi. Họ vào thành thấy các quan văn võ, lính tráng tấp nập đông đảo như một nước riêng.
Hùng Vương được tin báo cho là con gái làm loạn, vội phái quân đi đánh.
Đoàn quân sĩ nhà vua gần tới nơi, bộ hạ Tiên Dung xin ra chống cự, nàng cười mà bảo rằng:
- Tất cả mọi việc đều do ở trời chứ không phải tự ta. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống hay chết đều nhờ ở trời, dẫu ta có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận.
Trời đã tối, quân của Hùng Vương không kịp tấn công, dừng lại đóng ở bãi Tự Nhiên, cách đối phương một con sông lớn. Đến nửa đêm trời bỗng nổi bão, sóng gió cuồn cuộn, nhổ cây ở bãi, đại quân của Hùng Vương rối loạn. Trong chốc lát thành quách cung điện và bộ hạ của hai vợ chồng Tiên Dung đều bay cả lên trời. Sáng hôm sau, người ta kinh hãi thấy chỗ đó đã hóa thành một cái đầm lớn. Dân chúng bèn lập đền thờ để cúng tế hàng năm, gọi đầm ấy là đầm Nhất Dạ (Một đêm), thuộc phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên.

* Ý nghĩa và phân tích truyện:
Chử Đồng Tử " là một truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần kỳ.  Nó cũng thuộc đề tài về những kẻ hèn mọn "lấy tiên, lấy công chúa...” được kể qua nhiều truyện cổ tích thần kì. Truyện "Chử Đồng Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò cua, bắt cá, nghèo khổ, một cái khố cũng không có, nhưng rất hiếu thảo, chân thật. Hạnh phúc cầm tay rồi mà chàng vẫn bối rối, muốn chối từ. Với Tiên Dung thì nàng "gặp" và lấy Chử Đồng Tử là do "duyên trời run rủi", là "tự trời xe duyên". Qua đó, ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên quan niệm của nhân dân ta về vấn đề hôn nhân là do duyên số, đồng thời thể hiện ước mơ tự do và dân chủ trong tình yêu, trong xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Tiên Dung đã chủ động kết duyên với Chử Đồng Tử vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua mọi thử thách để bảo vệ hạnh phúc.
Con người Việt Nam dù đi đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn, tìm mọi cách để giúp nước. Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã sống và hành động như vậy. Nhà sư Phật quang, cái nón và chiếc gậy nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi, Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phục cái vuốt rồng.... đó là yếu tố hoang đường, kì diệu... làm cho truyện cổ tích này vô cùng hấp dẫn. Các địa danh: làng Chử Xá, bãi Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ... Nay vẫn còn đó, làm cho truyện cổ tích "Chử Đồng Tử" tuy mang màu sắc hư ảo, thần kì mà như thật, có thật. Rất thú vị về những tên người, tên đất... ấy.


 CON RỒNG CHÁU TIÊN

* Truyện kể:



Thuở xa xưa ở miền Lạc Việt có một vị thần, nòi rồng, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, là con trai của nữ thần Lạc Long Nữ nơi thuỷ cung tráng lệ. Lạc Long Quân có sức khoẻ phi thường, lắm phép lạ, đã vì dân mà ra tay diệt Hồ Tinh, Ngư Tinh, Mộc Tinh và nhiều yêu quái khác. Thần còn dạy dân biết cách trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn, chài lưới, cách làm nhà để ở,...
Cũng thuở ấy, ở vùng núi phương Bắc có nàng Âu Cơ, thuộc dòng dõi Thần Nông, tuyệt trần xinh đẹp. Nghe tin vùng đất Lạc Việt phương Nam là một xứ sở nhiều hoa thơm cỏ lạ, Âu Cơ bèn du ngoạn tới thăm.
Âu Cơ gặp Lạc Long Quân, người mến sắc, kẻ tham tài, rồi yêu nhau, nên vợ nên chồng. Sau mối kỳ duyên hạnh ngộ, Âu Cơ đẻ ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm đứa con trai khôi ngô, tuấn tú tuyệt trần. Cuộc sống đang diễn ra vô cùng hạnh phúc, thì một hôm Lạc Long Quân nói với Âu Cơ rằng: Ta vốn nòi rồng ở nước, nàng là dòng tiên ở non cao. Khó ở với nhau một nơi lâu dài được. Ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển; nàng sẽ đưa năm mươi con lên núi, chia nhau trấn giữ các phương. Khi có đại sự nhớ giúp nhau, chớ sai lời hẹn....
Âu Cơ đưa đàn con lên rừng núi sinh cơ lập nghiệp. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô tại Phong Châu, truyền ngôi mười mấy đời uy danh rạng rỡ bốn phương. Con cháu ngày một thêm đông đúc.
Từ sự tích Trăm trứng này mà người Việt Nam ta vẫn tự hào nhắc đến nguồn gốc dòng dõi của mình là con Rồng cháu Tiên.

* Ý nghĩa truyện:
Truyện Con Rồng cháu Tiên là một huyền thoại đẹp, giàu ý nghĩa. Nó giải thích, ca ngợi và khẳng định nguồn gốc, dòng giống của con người Việt Nam ta vô cùng cao quý (dòng giống Rồng Tiên). Truyện đã thể hiện một cách sâu sắc niềm tự tôn, tự hào dân tộc, khơi dậy tình yêu thương, đoàn kết dân tộc trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam chúng ta. Nó nhắc nhở chúng ta rằng nghĩa đồng bào là cao cả, thiêng liêng.
Đúng như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
“... Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người ai trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ...”
                                 (Đất nước - Trường ca mặt đường khát vọng)

SỰ TÍCH QUẢ DƯA HẤU

* Truyện kể:


          Ngày xưa, đất nước ta có núi cao, sông dài, biển rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Thời đó, có một người tên là Mai An Tiêm vốn làm ăn chăm chỉ, lại khéo tay, tháo vát nên được nhà vua yêu mến và nhận làm con nuôi.
         Một hôm, trong bữa tiệc thiết khách, Mai An Tiêm vui vẻ nói:
    - Nem công chả phượng của rừng của biển đều nhờ có tay người cầm cái nỏ, quăng cái lưới, đến cả hạt gạo ủ ra chén rượu này cũng do bàn tay con người làm nên cả.
         Một viên quan trong triều vốn ghen ghét An Tiêm bèn về tâu với Vua, Vua đùng đùng nổi giận, nói:
   - Đã thế, ta cho nó cứ thử trông cậy vào hai bàn tay xem có sống nổi không?
         Thế là một buổi sớm, vua ra lệnh đày cả nhà An Tiêm ra một hòn đảo hoang vu, không một bóng người. An Tiêm phải tìm một hốc đá để ở tạm.
         Từ đấy, hàng ngày, An Tiêm đi bắn chim, còn nàng Ba, vợ an Tiêm thì ra bờ biển mò ngao, bắt cá làm thức ăn.
         Bỗng một hôm, An Tiêm thấy một con chim xuất hiện trên hoang đảo. Con chim ăn một miếng quả lạ và nhả xuống những hạt nho nhỏ màu đen nhánh. An Tiêm nghĩ thầm: “ Quả mà chim ăn được thì chắc hẳn người cũng ăn được”. Chàng bèn nhặt những hạt đó và đem ươm vào một hốc đá rêu ẩm.
         Ít ngày sau, hạt đã nảy mầm đâm lá, bò tỏa ra khắp khoảnh đất. Hai vợ chồng An Tiêm sớm chiều chăm bón những cây lạ đó. Chẳng bao lâu, cây nở hoa, hoa kết thành quả.
         Đến lúc quả đã to, vỏ có màu xanh thẫm, An Tiêm cắt về rồi bổ ra thì thấy ruột quả màu đỏ tươi, cùi màu trắng và nhiều hạt màu đen nhánh. Cả nhà ăn đều thích vì quả có vị ngọt và thơm mát. An Tiêm gọi đó là quả dưa đỏ.
         Từ đấy, An Tiêm tiếp tục trồng thêm dưa. Giống dưa ngày càng sai, quả càng to, vị càng thơm ngọt.
         Cứ mỗi mùa hái quả, An Tiêm lại khắc tên mình vào mấy quả dưa rồi thả xuống biển, nhờ sóng biển đưa vào đất liền.
         Một hôm, có một chiếc thuyền ghé đến muốn đổi giống dưa quý để đem về bán trên đất liền. Từ đó, An Tiêm đổi được các thức ăn, đồ dùng thường ngày và còn làm được một cái nhà lá xinh xinh.
         Một ngày kia, có người dâng vua quả dưa lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích mới biết là do An Tiêm trồng ngoài hoang đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình đã sai, liền cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. Hai vợ chồng An Tiêm mừng rỡ thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay.

* Ý nghĩa truyện: nói về tính tự lực cánh sinh, lao động vì bản thân mình, vượt lên hoàn cảnh khó khăn.
SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG, BÁNH DẦY

* Truyện kể:


Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con. 
Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho". 
Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng. 
Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là Lang Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào. 
Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành".
Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầy. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái. 
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy, Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18. 
Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

* Ý nghĩa truyện Bánh chưng bánh giầy:
Hai loại bánh giản dị đơn sơ, là sự chân thành của một vị hoàng tử nghèo hiếu thảo, là hiện thân cho lòng biết ơn đối với thiên nhiên, bầu trời và đất mẹ. Là thành quả sáng tạo trong lao động.
Nó khen ngợi sự khéo léo và sáng tạo của một người lao động. Không thể sánh với cao lương mỹ vị nhưng trên tất cả chính là sự hiếu thảo chân thành của Lang Liêu.
Đó là câu chuyện giáo dục đạo đức, là tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, cha mẹ không cần các con mình phải biếu cao lương mỹ vị gì mà chỉ cần tấm lòng của các con đối với mình mà thôi.



SƠ ĐỒ TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC VĂN LANG














Phụ lục 3: Đề và đáp án kiểm tra sau tác động
ĐỀ KIỂM TRA KHẢO SÁT
Thực hiện: khối 6
Tiết PPCT: 14
Hình thức: Trắc nghiệm và Tự luận (3/7)
Trường THCS Nguyễn Văn Trỗi
Họ và tên:………………………….
Lớp:……………

KIỂM TRA KHẢO SÁT
Môn: LỊCH SỬ 6
Thời gian: 25 phút.
Điểm
PHẦN A: TRẮC NGHIỆM (Trắc nghiệm khách quan, nối cột và điền vào chỗ trống)
Câu 1: Nhà nước Văn Lang ra đời vào:
A. Khoảng thế kỉ VIII TCN
B. Khoảng thế kỉ VII TCN
C. Khoảng thế kỉ VI TCN
D. Khoảng thế kỉ V TCN
Câu 2: Kinh đô nhà nước Văn Lang ở đâu?
A. Việt Trì (Phú Thọ)
B. Bạch Hạc (Phú Thọ)
C. Đoan Hùng (Phú Thọ)
Câu 3: Theo truyền thuyết “Con rồng cháu tiên”. Ai là người được suy tôn lên đứng đầu Nhà nước Văn Lang? Lấy hiệu là gì?
…………………………………………………………………………………..
Câu 4: Hãy nối các câu chuyện sau với ý nghĩa mà nó phản ánh cho phù hợp:
Cột 1
Cột 2
1. Con rồng cháu tiên
A. Chống lũ lụt, thiên tai
2. Thánh Gióng
B. Trao đổi sản phẩm
3. Bánh Chưng Bánh giầy
C. Phong tục, tập quán lao động
4. Chử Đồng Tử- Tiên Dung
D. Nguồn gốc dân tộc
5. Quả dưa hấu
E. Chống giặc ngoại xâm
6. Sơn Tinh- Thủy Tinh
F. Phân hóa giàu nghèo trong xã hội
1 nối với...........                                 4 nối với...........
2 nối với...........                                 5 nối với...........
3 nối với...........                                 6 nối với...........
PHẦN B: TỰ LUẬN
Câu 1: Các câu chuyện phản ánh những hoàn cảnh đưa đến sự ra đời của Nhà nước Văn Lang là những câu chuyện nào, Em hãy kể tên câu chuyện và rút ra những hoàn cảnh ra đời Nhà nước Văn Lang cho phù hợp?
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Câu 2: Hoàn thành sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang? Nhận xét?

Câu 3: Khi đến thăm Đền Hùng (Phú Thọ), Bác Hồ đã căn dặn điều gì? Ý nghĩa của lời căn dặn đó và trách nhiệm đối với thế hệ trẻ hiện nay?
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................................................................................................................................
ĐÁP ÁN

PHẦN A: TRẮC NGHIỆM
Câu 1: B (0.5đ)
Câu 2: B (0.5đ)
Câu 3: Người anh cả theo mẹ Âu Cơ lên vùng núi cao lên làm vua, lấy hiệu Hùng Vương. (0.5đ)
Câu 4: Mỗi ý nối đúng đạt 0.25đ
1-    D
2-    E
3-    C
4-    F
5-    B
6-    A
PHẦN B: TỰ LUẬN
Câu 1:
* Các câu chuyện phản ánh hoàn cảnh ra đời của Nhà nước Văn Lang và ý nghĩa của nó:
- Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh -> nhu cầu đấu tranh chống thiên tai, bão lụt, bảo vệ mùa màng.
- Truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung -> sự phân chia người giàu – người nghèo trong xã hội.
- Truyện Thánh Gióng -> Nhu cầu đấu tranh chống ngoại xâm và giải quyết xung đột giữa các bộ lạc.
Câu 2:
Sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang:
Nhận xét: còn sơ khai, đơn giản, nhưng đã là một tổ chức cai quản đất nước.
Câu 3:
* Bác Hồ căn dặn: “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
* Ý nghĩa: Vua Hùng là người dựng nên nhà nước Việt Nam đầu tiên. Trách nhiệm của thế hệ sau, đặc biệt là thế hệ trẻ của chúng ta, phải ra sức học tập, cống hiến sức trẻ cho quê hương đất nước, xây dựng đất nước tươi đẹp, giàu mạnh và văn minh.



Phụ lục 4: Bảng điểm kiểm tra trước và sau tác động của nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm

Bảng điểm lớp  6A3 ( Nhóm đối chứng)





STT
Họ
Tên
Điểm kiểm tra trước tác động
Điểm kiểm tra sau tác động





1
Lê Việt Bảo
Anh
6
7
2
Phạm Thị Kim
Anh
7
6
3
Phạm Việt
Bảo
6
6
4
Bùi Thanh
Bình
6
5
5
Nguyễn Thành
Chính
5
7
6
Nguyễn Hữu
Đạt
8
6
7
Trương Công
Đức
5
7
8
Nguyễn Ngọc
7
8
9
Nguyễn Nhật
Hào
8
7
10
Nguyễn Đình
Hận
5
7
11
Nguyễn Minh
Hiếu
7
6
12
Mai Thị Thanh
Huệ
8
9
13
Lê Bá
Huy
4
5
14
Nguyễn Trần Đình
Huy
7
6
15
Võ Quốc
Huy
5
6
16
Dương Việt
Hưng
6
5
17
Nguyễn Lê
Kỷ
5
7
18
Nguyễn Thị Trúc
Lan
7
6
19
Nguyễn Thị Mỹ
Linh
7
7
20
Chu Hương
Ly
7
8
21
Bùi Thị Ái
My
5
8
22
Nguyễn Bá phương
Nam
7
7
23
Nguyễn Hồ Thanh
Ngân
8
6
24
Cao Thiện
Nhân
7
7
25
Trần Thị Ngọc
Nhi
6
9
26
Nguyễn Thịnh
Phát
6
7
27
Tô Văn
Phụng
6
6
28
Lê Thị Kim
Phượng
6
6
29
Dương Thị Tuyết
Sương
4
6
30
Lê Trương Tấn
Sỹ
8
9
31
Trương Minh
Thành
7
7
32
Quách Thị
Thắm
5
5
33
Hoàng Phước
Thiện
8
8
34
Đinh Văn
Thịnh
6
8
35
Phạm Thị Kim
Tho
6
7
36
Lê Cẩm
Thúy
7
8
37
Nguyễn Ngọc
Thương
5
6
38
Dương Văn
Tốt
4
6
39
Võ Ngọc Bảo
Trân
7
8
40
Trần Huy
5
6
41
Trang Ngọc
Xuyến
8
8
42
Phan Thị Ngọc
Ý
6
7




Bảng điểm lớp 6A10 ( Nhóm thực nghiệm)

STT
Họ
Tên


Điểm kiểm tra trước tác động
Điểm kiểm tra sau tác động
1
Đỗ Đăng
Bảo
7
9
2
Lê Văn
Bình
7
9
3
Nguyễn Thanh
Bình
8
9
4
Lê Thị Ngọc
Châm
7
8
5
Vương Đình
Duy
7
9
6
Dương Văn
Dự
8
9
7
Nguyễn Thị Ngọc
Giàu
7
7
8
Võ Thị Ngọc
Giàu
7
8
9
Nguyễn Thị Ngọc
Hân
6
10
10
Lê Thanh
Hiếu
8
10
11
Nguyễn Thị
Hồng
5
8
12
Nguyễn Võ Nhật
Huy
6
8
13
Nguyễn Quốc
Kiệt
7
8
14
Lữ Hoàng
Kim
8
7
15
Nguyễn Minh
Luân
6
6
16
Nguyễn Thị Cẩm
Ly
7
9
17
Dương Thị Vạn
5
8
18
Nguyễn Thị Diễm
Mi
6
7
19
Phạm Quang
Minh
6
9
20
Nguyễn Minh
Nam
6
8
21
Nguyễn Thế
Ngọc
7
8
22
Thân Bảo
Ngọc
6
8
23
Nguyễn Đình
Nguyên
6
6
24
Võ Đại
Nhân
6
8
25
Trần Đình Yến
Nhiên
5
7
26
Nguyễn Thị Tuyết
Nhung
6
6
27
Nguyễn Hồng
Phúc
5
5
28
Nguyễn Bất
Phục
5
6
29
Đào Xuân
Phương
2
7
30
Mai Hoài
Thanh
5
7
31
Nguyễn Thái Trang
Thanh
5
9
32
Nguyễn Quang
Thái
6
9
33
Mai Minh
Thắng
9
8
34
Nguyễn Văn
Thắng
9
7
35
Đoàn Thị Ngây
Thơ
7
7
36
Nguyễn Thị Anh
Thư
6
8
37
Phan Thanh Minh
Thư
5
9
38
Lê Thị Thùy
Trang
5
9
39
Nguyễn Thị Hồng
Trang
7
10
40
Phạm Văn
6
5
41
Lê Lâm
Tường
7
6


















Phụ lục 5: Một số bài kiểm tra của học sinh

































NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA TRƯỜNG THCS NGUYỄN VĂN TRỖI
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỊ XÃ THUẬN AN
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………



NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
CỦA SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH DƯƠNG
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………


loading...

0 nhận xét:

Post a Comment

loading...
loading...