loading...
MỤC LỤC
I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI................................................................................ 02
II. GIỚI THIỆU......................................................................................... 03
1. Thực trạng.......................................................................................... 03
2. Giải pháp thay thế.............................................................................. 04
3. Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài.................................. 05
4. Vấn đề nghiên cứu............................................................................. 05
5. Giả thuyết nghiên
cứu........................................................................ 05
III. PHƯƠNG PHÁP.................................................................................. 05
1. Khách thể nghiên cứu........................................................................ 05
2. Thiết kế nghiên cứu........................................................................... 06
3. Quy trình nghiên cứu......................................................................... 07
4. Đo lường và thu thập dữ liệu.............................................................. 07
IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ.............................................. 07
1.Trình bày kết quả................................................................................ 07
2. Phân tích dữ liệu................................................................................ 08
V. BÀN LUẬN KẾT QUẢ........................................................................ 09
VI. KẾT
LUẬN & KHUYẾN NGHỊ....................................................... 09
5.1. Kết luận.......................................................................................... 09
5.2. Khuyến nghị................................................................................... 09
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................... 10
CÁC PHỤ LỤC CỦA ĐỀ TÀI.................................................................. 11
Phụ lục 1: Mẫu thiết kế giáo án bài 12: Nước Văn Lang - Lịch
sử 6 có vận dụng phương pháp kể chuyện.................................................................................................... 11
Phụ
lục 2: Các câu chuyện được sử dụng trong
bài và khai thác kiến thức lịch sử, ý nghĩa của các câu chuyện............................................................................................. 21
Phụ lục 3: Đề và đáp án kiểm tra sau tác động......................................... 38
Phụ lục 4: Bảng điểm kiểm tra trước và sau
tác động của nhóm đối chứng và nhóm thực
nghiệm......................................................................................................... 42
Phụ lục 5: Một số bài kiểm tra của học
sinh............................................ 46
I. TÓM TẮT ĐỀ TÀI
“ Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Hai câu thơ mở đầu của chủ tịch Hồ Chí
Minh trong sách Lịch Sử nước ta đã một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của
việc dạy, học và hiểu biết về lịch sử. Bởi lẽ, Lịch Sử được xem là một môn khoa
học có ưu thế lớn trong việc hình thành nhân sinh quan cách mạng và tư duy sáng
tạo cho các em, từ hiểu biết lịch sử sẽ giúp các em rút ra nhiều kinh nghiệm
quý giá, góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.
Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng đã đề cập
rất nhiều đến chất lượng học tập lịch sử của học sinh. Những điểm số, những ví
dụ trích dẫn từ những bài thi khiến người ta nghĩ đến điều đầu tiên là: chất
lượng dạy và học Lịch sử đang ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Đặc biệt là
chương trình lịch sử Việt Nam thời cổ đại do không sử dụng nhiều trong các kỳ
thi tuyển sinh, thi học sinh giỏi, vì thế các em thường ít chú tâm, không nắm
vững những vấn đề mang tính chất trọng tâm. Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân, từ cả hai phía: thầy và trò. Trò không chú tâm học, nội dung kiến
thức quá nhiều, hay trùng lặp nên không thể nhớ chính xác, khả năng tự nghiên
cứu của học sinh còn hạn chế do hoạt động riêng lẽ, chưa thể hiện được tinh
thần hợp tác, chia sẻ kiến thức lẫn nhau, cách khai thác kiến thức lịch sử của
học sinh còn hạn chế. Thầy dạy không hết “nội lực”, phương pháp soạn giảng chưa
gây được sự hứng thú, chưa liên kết được các sự kiện lịch sử,chưa thể hiện được
sự tích hợp nội dung, kích thích hoạt động hợp tác cho các thành viên trong
lớp. Chính vì những điều đó đã gây ra những cản trở lớn trong việc tiếp thu
kiến thức của học sinh.
Là người trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ
môn Lịch Sử trong nhiều năm, đặc biệt là chương trình lịch sử Việt Nam thời cổ
đại (tương ứng chương trình lịch sử lớp 6) tôi và các đồng nghiệp luôn trăn trở
là làm sao có thể giúp học sinh có thể lĩnh hội, chia sẻ kiến thức một cách tốt
nhất, làm thế nào để nâng cao hứng thú học tập bộ môn cho học sinh, giúp các em
từ những kiến thức lịch sử đã học có thể vận dụng để giải quyết các tình huống
trong thực tế. Theo tôi, để làm được điều đó thì trước tiên người thầy cần phải
giúp học sinh có những nền tảng vững chắc, sự ham thích học tập từ khi mới bắt
đầu biết về lịch sử, tức là đối tượng cần được tác động ban đầu chính là những
em học sinh lớp 6_ lứa tuổi có nhiều sự chuyển biến và khá bỡ ngỡ khi vừa
chuyển từ môi trường cấp 1 sang cấp 2. Do vậy, người giáo viên cần tìm ra một
phương pháp tối ưu nhất giúp các em có thể hợp tác cùng nhau giải quyết các vấn
đề lịch sử mang tính khái quát nhất, thông qua đó có thể nắm kiến thức một cách
dễ dàng. Chính vì thế, theo tôi, đối với lứa tuổi này thì việc vận dụng phương
pháp kể chuyện là phương pháp được xem là tối ưu nhất và đem lại hiệu quả
truyền tải kiến thức lịch sử tốt nhất.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này Tôi xin
được đưa ra một phương pháp mà bản thân đã áp dụng có hiệu quả đó chính là vận
dụng phương pháp kể chuyện trong giảng dạy bài 12: “Nước Văn Lang”, giúp học sinh nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành
lập nước Văn Lang, qua đó giúp học sinh nắm vững kiến thức, đồng thời rèn
phương pháp, kỹ năng kể chuyện, từ đó ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách sâu
sắc. Cũng xin được nói thêm, việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong giảng
dạy Lịch sử không phải là một vấn đề mới, đây là một vấn đề mà các cấp lãnh đạo
Sở Giáo Dục Bình Dương cũng đã khởi xướng, nhưng hiệu quả mang lại chưa cao.
Riêng bản thân tôi đã mạnh dạn đẩy mạnh vận dụng phương pháp kể chuyện thực
nghiệm đối với bài 12: “Nước Văn Lang”
trong chương trình lịch sử 6 do bản thân phụ trách trong năm học 2015- 2016.
Kết quả cho thấy rất khả quan, học sinh tiếp thu tốt phần nội dung trọng tâm,
năng động hơn trong việc tự mình lĩnh hội và chia sẻ tri thức thông qua các câu
chuyện lịch sử.
Do hạn hẹp về thời gian, nên trong đề tài
nghiên cứu này tôi chỉ xin được trình bày việc “vận dụng phương pháp kể
chuyện trong bài 12: Nước Văn Lang”. Việc làm này đã góp phần giúp học sinh
ham thích học tập bộ môn và ngày càng hứng thú hơn trong các giờ học Lịch sử,
đồng thời cũng tạo điều kiện cho bản thân tôi mở rộng đề tài để nghiên cứu ứng dụng
đối với các bài trong chương trình lịch sử còn lại trong thời gian sắp tới.
Để việc
nghiên cứu đảm bảo được tính khách quan, nghiêm túc và chính xác, tôi tiến hành
nghiên cứu trên hai nhóm do tôi và đồng nghiệp phụ trách được xem là tương
đương nhau: hai lớp 6 của trường THCS Nguyễn Văn Trỗi. Lớp 6A3 là lớp đối chứng
do cô Võ Thị Thu Hà đứng lớp giảng dạy, lớp 6A10 là lớp thực nghiệm do bản thân
tôi trực tiếp giảng dạy. Thực nghiệm được thực hiện giải pháp thay thế ở tuần
13; tiết 13; Bài 12: “Nước Văn Lang”-
Lịch Sử 6, năm học 2015- 2016.
Qua nghiên
cứu và thu thập số liệu, kết quả độ chênh lệch điểm trung bình T-test cho kết quả p= 0.0001 < 0.05 cho thấy
tác động đã làm tăng hứng thú
và kết quả học tập của học sinh một cách rõ rệt.
II. GIỚI THIỆU
1. Thực trạng:
Thông qua việc dự giờ các lớp và tình hình
giảng dạy chung của giáo viên khối lớp 6, tôi nhận thấy điểm hạn chế tồn tại
tập trung ở phương pháp truyền thụ kiến thức của giáo viên cho học sinh. Học
sinh nhàm chán, uể oải, khó tổng hợp các kiến thức cơ bản trong các giờ học lịch
sử, không biết cách khai thác kiến lịch sử do giáo viên chỉ sử dụng phương pháp
đơn điệu như thuyết trình, vấn đáp, chưa
phát huy được những kỹ năng kể chuyện, khai thác kiến thức lịch sử cho học sinh...
Khi học sinh không có hứng thú, không nắm được vững kiến thức sẽ dẫn đến chất
lượng dạy và học của bộ môn không cao.
2. Giải pháp thay thế:
Qua thực trạng trên, tôi quyết định chọn
đề tài: “Vận dụng phương pháp kể chuyện trong giảng dạy bài
12: Nước Văn Lang giúp học sinh nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước
Văn Lang” nhằm tìm ra giải
pháp để học sinh lớp 6 ham thích, hứng thú, nắm vững kiến thức trọng tâm trong
bài 12: Nước Văn Lang - Lịch sử 6, thông qua tiết học lịch sử. Từ đó nâng cao
chất lượng dạy và học môn Lịch sử.
Như chúng ta đã biết, trong các phương
pháp dạy học tích cực thì phương pháp kể chuyện là một trong những phương pháp
khá phổ biến và đạt kết quả truyền tải kiến thức tốt nhất, đặc biệt là đối với
học sinh lớp 6, lứa tuổi chuyển tiếp từ trẻ con sang người lớn.
Mục tiêu của phương pháp kể chuyện là giúp
học sinh thông qua các câu chuyện, truyền thuyết mà các em đã biết, đã đọc, đã
học, tìm ra các ý nghĩa lịch sử bên trong đó, từ đó giúp học sinh khắc sâu kiến
thức lịch sử hơn, thêm hứng thú khi tìm hiểu lịch sử.
Mỗi một câu chuyện kể là một kho tàng lịch
sử được lưu truyền từ đời này đến đời khác dưới nhiều hình thức khác nhau, rất
có giá trị. Dù đó là những câu chuyện có thật hay chỉ là truyền thuyết thì đều
mang ý nghĩa lịch sử rất lớn. Việc cụ thể hóa thành truyện kể cũng là một cách
giúp người xưa ghi nhớ, lưu giữ nét lịch sử của dân tộc từ xưa đến nay.
Để phương pháp kể chuyện đạt hiệu quả cao,
yêu cầu đặt ra đối với giáo viên và học sinh là:
+ Giáo viên: nắm vững nội dung câu chuyện,
cách kể chuyện truyền cảm, cuốn hút, rút ra ý nghĩa bên trong câu chuyện, liên
hệ kiến thức lịch sử, phát hiện ra những học sinh có năng khiếu kể chuyện.
+ Học sinh: chuẩn bị trước các câu chuyện
mà giáo viên yêu cầu, biết tóm tắt cốt truyện, rèn kỹ năng kể chuyện trước lớp,
rút ra ý nghĩa chuyện, liên hệ thực tế.
Các câu chuyện được vận dụng trong bài 12:
“Nước Văn Lang” bao gồm: “Sơn Tinh - Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”, “Chử Đồng Tử - Tiên Dung”, “Con rồng cháu tiên”, “Sự tích quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”. Đây là
những câu chuyện mà các em học sinh lớp 6 đã được học, được biết đến trong sách
kể chuyện trong chương trình ở cấp tiểu học. Qua các câu chuyện giúp lớp học
sinh động hơn, học sinh hứng thú hơn khi tìm hiểu và biết
được các câu chuyện truyền thuyết đều có liên quan đến những sự kiện, kiến thức
lịch sử, từ đó ghi nhớ kiến thức lịch sử một cách sâu sắc. Thông qua việc vận
dụng phương pháp này, học
sinh được lôi cuốn vào quá trình học tập một cách tự nhiên làm nâng
cao hứng thú học tập, giúp các em giảm bớt được những mệt mỏi, căng
thẳng trong học tập, đem lại niềm vui, sự hứng thú học tập cho các
em, từ đó giúp các em nắm vững kiến thức tốt hơn.
3. Một số nghiên cứu gần đây liên quan đến đề tài:
Đề tài nghiên cứu mà tôi thực hiện chủ yếu
dựa trên việc vận dụng có hiệu quả bài dạy thực tế trên lớp. Mục tiêu của bản thân là muốn đẩy mạnh việc vận dụng phương
pháp kể chuyện trong giảng dạy các chương trình lịch sử trong các cấp học, đặc
biệt là khối lớp 6, đem đến một phương pháp giảng dạy và học tập có hiệu quả
nhằm chia sẻ với các đồng nghiệp cũng như góp phần giúp học sinh lớp 6 trường
THCS Nguyễn Văn Trỗi nói riêng và học sinh các trường THCS khác nói chung ngày
càng ham thích và nắm vững kiến thức trọng tâm bài 12: “Nước Văn Lang” – trong chương trình Lịch sử 6.
4. Vấn đề nghiên cứu:
Việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong
bài 12: “Nước
Văn Lang”, có góp phần giúp
học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự
thành lập nước Văn Lang không?
5. Giả thuyết nghiên cứu:
Có.
Việc vận dụng phương pháp kể chuyện trong bài 12: “Nước Văn Lang” đã góp phần giúp học sinh lớp 6 trường THCS
Nguyễn Văn Trỗi nắm vững hoàn cảnh ra đời và sự thành lập nước Văn Lang.
III. PHƯƠNG PHÁP:
1. Khách thể nghiên cứu:
Tôi lựa chọn trường THCS Nguyễn Văn Trỗi-
phường An Phú - thị xã Thuận An - Bình Dương vì đây là trường mà bản thân tôi
đã công tác từ khi mới bắt đầu thành lập nên có nhiều điều kiện thuận lợi.
* Giáo viên: Để đảm bảo tính khách
quan, chính xác, tôi lựa chọn hai lớp do Tôi và cô Võ Thị Thu Hà phụ trách, hai
chúng tôi đều có trình độ tương đương nhau, có lòng nhiệt tình và trách nhiệm
trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh.
1. Vương Trần Huyền Trân - Giáo viên dạy
sử lớp 6A10 (lớp thực nghiệm)
2. Võ Thị Thu Hà - Giáo viên dạy sử lớp 6A3
(lớp đối chứng).
* Học sinh: Tôi lựa chọn hai lớp: Lớp 6a10 (Nhóm thực nghiệm), lớp 6A3 (Nhóm đối chứng), vì đó là hai lớp có sự tương đồng về
dân tộc, giới tính, trình độ và sỉ số lớp.
Học sinh hai lớp này có thái độ và kết quả học tập là tương
đương nhau.
|
Số HS các
nhóm
|
Dân tộc
|
|||
Tổng số
|
Nam
|
Nữ
|
Kinh
|
Dân tộc khác
|
|
Lớp 6A10
|
41
|
23
|
18
|
41
|
0
|
Lớp 6A3
|
42
|
24
|
18
|
42
|
0
|
2. Thiết kế nghiên cứu:
Chọn hai lớp nguyên vẹn: lớp 6A10 là nhóm
thực nghiệm và 6A3 là nhóm đối chứng. Tôi dùng bài kiểm tra 1 tiết học kì I môn
lịch sử làm bài kiểm tra trước tác động. Kết quả kiểm tra cho thấy điểm trung
bình của hai nhóm có sự khác nhau, do đó chúng tôi dùng phép kiểm chứng T-Test
để kiểm chứng sự chênh lệch giữa điểm số trung bình của 2 nhóm trước khi tác
động.
Kết quả:
Bảng
2. Kiểm chứng để xác định các nhóm tương
đương
|
Đối
chứng
|
Thực nghiệm
|
TBC
|
6.28
|
6.31
|
p =
|
0.45
|
p = 0.45 > 0.05, từ đó kết luận sự chênh
lệch điểm số trung bình của hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là không có ý
nghĩa (sự chênh lệch xảy ra là ngẫu nhiên), hai nhóm được coi là tương đương.
Tôi lựa chọn thiết kế 2: Thiết kế kiểm tra trước và sau tác động đối với các nhóm tương đương.
Bảng 3. Thiết kế nghiên cứu :
Nhóm
|
KT trước TĐ
|
Tác động
|
KT sau TĐ
|
Thực nghiệm (6A10)
|
O1
|
Vận dụng phương pháp kể chuyện vào
quá trình dạy học
|
O3
|
Đối chứng
(6A3)
|
O2
|
Không vận dụng phương pháp kể
chuyện vào quá trình dạy học
|
O4
|
Ở thiết
kế này, tôi sử dụng phép kiểm chứng T-Test độc lập.
3. Quy trình nghiên cứu :
3.1. Sự chuẩn
bị của giáo viên:
Đối với lớp đối chứng, cô Võ Thị Thu Hà vẫn giảng dạy bài 12: “Nước Văn Lang”
theo phương pháp vấn đáp, diễn giảng bình thường theo phân phối chương trình
quy định.
Đối với lớp thực nghiệm do tôi trực tiếp giảng dạy. Đối với
tiết này, tôi thiết kế giáo án sử dụng phương pháp kể chuyện kết hợp các phương
pháp tích cực khác như vận dụng kiến thức liên môn, vấn đáp, tường thuật,...,
thông qua đó, giúp học sinh khai thác kiến thức lịch sử trong bài, từ đó biết
liên hệ thực tế. Việc vận dụng phương pháp kể chuyện như đã trình bày ở trên
vẫn đảm bảo về thời lượng và phân phối chương trình theo quy định, đồng thời
có sự chuẩn bị đồ dùng dạy học kĩ hơn, chu đáo hơn. Sau tiết sẽ sử
dụng 25 phút để tiến hành làm một bài test 25 phút thu kết quả.
3.2. Tiến
hành thực hiện :
Thời gian tôi tiến hành dạy thực nghiệm bài 12: “Nước Văn Lang”
theo đúng phân phối chương trình là tuần 13, tiết 13.
Các câu chuyện sử dụng trong bài 12: “Nước Văn Lang”
bao gồm: “Sơn
Tinh - Thủy Tinh”, “Thánh
Gióng”, “Chử Đồng Tử - Tiên Dung”, “Con rồng cháu tiên”, “Sự tích
quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng,
bánh dầy”. Các câu chuyện này sẽ được sử dụng đan xen trong bài, giúp học
sinh khai thác được các kiến thức lịch sử quan trọng, từ đó nắm vững hoàn cảnh
ra đời và sự thành lập nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc
ta.
Đối với lớp 6A3 (lớp đối chứng) thì cô Hà
cũng vẫn dạy bình thường theo phân phối chương trình của bài 12 là tuần 13,
tiết 13.
4. Đo lường và thu thập dữ liệu:
Kết quả
kiểm tra trước tác động là các điểm số lấy từ bài kiểm tra 1 tiết trong học kì
I.
Kết quả
kiểm tra sau tác động là điểm bài kiểm tra sau khi tôi đã tiến hành áp dụng phương
pháp kể chuyện trong bài 12: “Nước Văn Lang” (khảo sát dưới hình thức
kiểm tra trắc nghiệm và tự luận).
IV. PHÂN TÍCH DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ:
1.
Trình bài kết quả:
Tiến hành
kiểm tra và chấm bài.
Sau khi
thực hiện dạy xong bài 12: “Nước Văn Lang” bằng việc sử dụng phương
pháp kể chuyện, tôi ra đề và cho học sinh làm bài kiểm tra. Tôi tiến hành chấm
bài kiểm tra theo đáp án đã xây dựng (Nội
dung kiểm tra trình bày ở phần phụ lục).
Bảng so sánh điểm trung bình trước tác động:
|
Nhóm đối chứng
|
Nhóm thực nghiệm
|
Điểm
trung bình
|
6.28
|
6.31
|
Độ
lệch chuẩn
|
1.17
|
1.29
|
Giá
trị p của T-test
|
0.45
|
|
Chênh lệch giá trị
trung bình chuẩn SMD
|
0.02
|
Bảng so sánh điểm trung bình sau khi tác
động:
|
Nhóm đối chứng
|
Nhóm
thực nghiệm
|
Điểm
trung bình
|
6.80
|
7.82
|
Độ
lệch chuẩn
|
1.08
|
1.30
|
Giá
trị p của T-test
|
0.0001
|
|
Chênh lệch giá trị
trung bình chuẩn SMD
|
0.94
|
2. Phân tích dữ liệu:
Kết quả kiểm tra sau tác động cho thấy điểm
trung bình của nhóm thực nghiệm là 7.82 cao
hơn so với điểm trung bình kiểm tra trước tác động là
1.02.
Điều này chứng tỏ rằng chất lượng học tập môn lịch sử của học sinh lớp 6A10 đã
được nâng lên đáng kể.
Sau quá
trình tác động và kiểm chứng sự chênh lệch giá trị trung bình bằng
phép kiểm chứng t-test đã cho ta kết quả p= 0.0001 cho thấy sự chênh lệch điểm khảo sát trung bình giữa
trước và sau tác động là có ý nghĩa, tức là sự chênh lệch điểm trung bình khảo
sát trước và sau tác động là không xảy ra ngẫu nhiên mà là do tác động của giải
pháp thay thế đã mang lại hiệu quả.
Chênh lệch
giá trị trung bình chuẩn SMD = (7.82-6.80)/1.08=
0.94, so sánh với bảng tiêu chí Cohen cho thấy mức độ ảnh hưởng
của giải pháp “vận dụng phương pháp kể
chuyện trong giảng dạy bài 12: Nước Văn Lang ” đã tác động đến chất lượng học tập của nhóm thực
nghiệm là lớn.
V. BÀN LUẬN KẾT QUẢ
Kết quả của bài kiểm tra sau tác động của nhóm
thực nghiệm là TBC= 7.82, kết quả bài kiểm
tra tương ứng của nhóm đối chứng là TBC = 6.80. Độ chênh lệch
điểm số giữa hai nhóm là 1.02.
Điều đó cho thấy điểm TBC của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm đã có sự khác
biệt rõ rệt, nhóm được tác động có điểm TBC cao hơn lớp đối chứng.
Chênh lệch
giá trị trung bình chuẩn của hai bài kiểm tra là SMD =
0.94, điều này có nghĩa mức độ ảnh hưởng của tác động là lớn.
Phép kiểm
chứng T-test điểm trung
bình sau tác động của hai nhóm là p = 0.0001 < 0.05. Kết quả này khẳng định
sự chênh lệch điểm trung bình của hai nhóm không phải là do ngẫu nhiên mà là do
tác động.
Đề tài này
theo tôi có thể ứng dụng rộng rãi ở các trường THCS ở Thị xã Thuận An nói riêng
và các trường THCS trên địa bàn tỉnh Bình Dương nói chung và nếu có sự đầu tư sẽ
có thể áp dụng ở cấp cao hơn.
Tuy nhiên
để nghiên cứu thành công và đạt kết quả cao hơn nữa theo tôi cần phải có sự cố
gắng nỗ lực của giáo viên trong đầu tư soạn giảng, chuẩn bị các thiết bị dạy
học. Về phía học sinh yêu cầu các em phải chuẩn bị nghiên cứu tài liệu ở nhà,
hoạt động nhóm có hiệu quả, phát huy năng khiếu, kỹ năng kể chuyện, khắc sâu
kiến thức lịch sử và biết liên hệ thực tế.
VI. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Việc vận
dụng phương pháp kể chuyện trong bài 12: “Nước Văn Lang” đã góp
phần giúp cho học sinh lớp 6 trường THCS Nguyễn Văn Trỗi nắm vững hoàn cảnh ra
đời và sự thành lập nước Văn Lang, từ đó làm tăng sự hứng thú học tập lịch sử
đối với học sinh của nhà trường.
2. Khuyến nghị:
Đối với các cấp lãnh đạo và nhà trường:
Cần quan tâm hơn nữa tới bộ môn Lịch sử, cũng như đời sống của giáo viên bộ môn
này để họ có thể tận tâm, nhiệt huyết với nghề. Nhà trường cung cấp và trang bị
thêm sách và tài liệu tham khảo liên quan đến nội dung môn học này.
Đối với giáo viên: Phải không ngừng đầu
tư trong soạn giảng từng tiết dạy về nội dung và phương pháp. Phải không ngừng
học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của bản thân, tích lũy kinh
nghiệm từ đồng nghiệp và bản thân, biết cách áp dụng hợp lí với trình độ lớp
mình giảng dạy.
Với kết
quả của đề tài nghiên cứu, tôi rất mong muốn được sự quan tâm, giúp đỡ của các
cấp lãnh đạo giáo dục. Những ý kiến đóng góp quý báu, chân thành của quý đồng
nghiệp giúp cho tôi hoàn chỉnh đề tài nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trần
Trọng Kim, “Việt Nam Sử Lược”, NXB
Văn hóa thông tin,
2002.
- Đào Duy Anh, “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỉ XIX”,
NXB Khoa học xã hội, 2011.
- Tài liệu
tập huấn nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng dự án Việt Bỉ - Bộ GD&ĐT.
- Tài liệu
nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng trường THCS Nguyễn Văn Trỗi.
- Sách giáo
khoa, sách giáo viên Lịch sử 6 – Nhà xuất bản giáo dục – Bộ GD&ĐT.
- Các tư
liệu chuyện kể và clip kể chuyện trên mạng Internet.
MINH CHỨNG – PHỤ LỤC
CHO ĐỀ TÀI
Phụ lục 1: Mẫu thiết kế giáo án bài 12: “Nước Văn Lang” - Lịch sử 6 có vận dụng
phương pháp kể chuyện
BÀI 12: NƯỚC VĂN LANG Tiết PPCT: 13
Ngày dạy: 10/11/2015
Lớp dạy: 6A10
A. MỤC TIÊU BÀI HỌC:
1. Kiến thức:
HS sơ bộ nắm
được :
- Những điều kiện cơ bản hình
thành nhà nước Văn Lang.
- Nhà nước Văn lang thành lập như
thế nào và được tổ chức ra sao.
- Nhà nước Văn Lang tuy còn sơ
khai nhưng nó là một tổ chức quản lí đất nước bền vững, đánh dấu giai đoạn mở
đầu thời kì dựng nước.
2. Tư tưởng:
Bồi dưỡng lòng
tự hào dân tộc và tình cảm cộng đồng. Tự hào về những truyền thống vẻ vang của
tổ tiên và ông cha ta.
3. Kĩ năng:
Kĩ năng vẽ sơ
đồ, kỹ năng kể chuyện, phân tích và rút ra ý nghĩa câu chuyện, liên hệ kiến
thức lịch sử.
B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH:
1. Giáo viên:
- Bản đồ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
- Tranh ảnh hiện vật phục chế
- Sơ đồ tổ chức nhà nước.
- Chuẩn bị các câu chuyện “Sơn
Tinh – Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”, “Chử Đồng Tử - Tiên Dung”, “Con Rồng cháu
tiên”, “Sự tích quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”.
2. Học sinh: đọc và trả lời các câu hỏi
trong SGK.
- Chuẩn bị các câu chuyện “Sơn
Tinh – Thủy Tinh”, “Thánh Gióng”, “Chử Đồng Tử - Tiên Dung”, “Con Rồng cháu
tiên”, “Sự tích quả dưa hấu”, “Sự tích bánh chưng, bánh dầy”. Tóm tắt và nêu ý
nghĩa các câu chuyện.
C. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP:
1. Kiểm tra kiến thức cũ:
Câu hỏi: Em hãy nêu những nét mới
về kinh tế, xã hội của cư dân Lạc Việt?
2. Giảng kiến thức mới:
*GTB: Những chuyển biến lớn
trong sản xuất và xã hội đã dẫn đến sự kiện có ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với người dân Việt Cổ- sự ra đời của nhà nước Văn Lang, mở đầu cho một thời đại
mới của dân tộc. Để biết được nhà nước Văn Lang được thành lập và tổ chức như
thế nào, chúng ta sẽ tìm hiểu Bài 12: “Nước Văn Lang”.
HOẠT ĐỘNG THẦY VÀ TRÒ
|
NỘI DUNG
|
Hoạt động 1
GV cho HS quan sát trên lược
đồ, giới thiệu cho HS vùng đồng bằng ven sông Hồng, sông Cả, sông Mã. Đây là
khu vực có người Việt cổ tập trung khá đông đúc và sớm phát triển.
(Vận dụng kiến thức liên môn với môn Địa Lý, giới thiệu về vùng đồng bằng
sông Hồng, giải thích cho HS với những điều kiện thuận lợi về đất đai, nguồn
nước, vì thế cư dân từ xưa đã tập hợp ở đây từ rất sớm. Đồng bằng sông Hồng
còn được xem là cái nôi của lịch sử loài người.)
GV: Vào thế kỉ VIII-VII TCN ở vùng đồng bằng ven các sông lớn
thuộc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay có gì thay đổi?
HS: Vào thế kỉ VIII-VII
TCN ở vùng đồng bằng ven các sông lớn:
- Vùng sông cả (Nghệ An)
- Sông Mã (Thanh Hóa )
- Vùng ven sông Hồng thuộc Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay.
dần dần hình thành những Bộ lạc
lớn có cùng tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế làm cho sản xuất ngày
càng phát triển.
GV: Trong các chiềng, chạ xuất hiện hiện tượng gì?
HS: Một số người ….nô tì.
GV: Chính điều đó đã làm cho xã hội nảy sinh điều gì?
HS: Sự mâu thuẫn giữa người giàu và người nghèo ngày càng sâu
sắc.
GV liên hệ chuyện kể “Chử Đồng
Tử - Tiên Dung”
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt
truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản
ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ
lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
Cuối cùng GV chốt: trong xã hội
lúc bấy giờ đã bắt đầu có sự phân chia người giàu – người nghèo.
GV: Việc mở rộng nghề nông trồng lúa nước ở vùng đồng bằng ven
sông lớn có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nghề nông trồng
lúa nước như đất phù sa màu mỡ, đủ nước tưới quanh năm từ đó cây trồng phát
triển tốt cho năng suất cao, đảm bảo cuộc sống của người dân. Bên cạnh đó
cũng có không ít khó khăn rất lớn làm ảnh hưởng đến nền sản xuất nông nghiệp
và đời sống của cư dân Lạc Việt.
GV: Đó là những khó khăn gì?
HS trả lời theo suy nghĩ
GV: Khó khăn: Lũ lụt thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng đến sản xuất
và cuộc sống (đặt biệt ở sông Hồng).
GV liên hệ truyền thuyết “Sơn
Tinh- Thủy Tinh”
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt
truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản
ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ
lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV: Theo em, truyện Sơn Tinh Thủy Tinh nói lên hoạt động gì của
nhân dân ta thời đó?
HS: Hoạt động chống lũ lụt, bảo vệ mùa màng.
GV: Bấy giờ đã xảy ra lũ lụt và hằng năm nhân dân ta phải đắp đất
để ngăn nước chống lũ lụt để bảo vệ mùa màng và xóm làng. Việc làm này một
người không thể nào làm được mà đòi hỏi phải có sự đoàn kết của nhân dân Lạc
Việt mới có thể tạo ra những con đê
ngăn chặn lụt lội, thiên tai.
GV: Để làm được việc này, phải làm như thế nào?
HS: Cần phải có người….bảo vệ mùa màng.
GV: GV cho HS Q.sát H 31, 32 SGK/34 của Bài 11. Lưỡi giáo, dao
găm gọi chung là gì? (Vũ khí).
GV: Sự xuất hiện của nhiều loại vũ khí chứng tỏ điều gì? (Có giặc
ngoại xâm và xung đột giữa các bộ lạc)
GV: câu chuyện nào của nhân dân ta thời xưa nói về hoạt động
chống ngoại xâm? (Thánh Gióng).
GV liên hệ truyện “Thánh Gióng”
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt
truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản
ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ
lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV giảng: Các loại vũ khí thời Đông Sơn gồm các loại mũi giáo
đồng và dao găm đồng. Sự xuất hiện nhiều loại vũ khí chứng tỏ sự phát triển
của nghề săn bắt. Nhưng chủ yếu cho chúng ta thấy trong xã hội đã có tranh
chấp, xung đột giữa các bộ lạc và giữa người Lạc Việt với các bộ tộc khác.
→ Tự bảo vệ khi có xung đột và
xâm lược.
GV: Để giải quyết các xung đột và chống ngoại xâm, đòi hỏi cư dân
người Việt cổ phải làm gì?
HS: Cùng nhau đoàn kết, có người chỉ huy, đứng đầu.
GV: Dựa trên những hoàn cảnh phức tạp đó, Nhà nước Văn Lang ra
đời.
GV: gọi 1 HS tóm lại những hoàn cảnh đưa đến sự ra đời của nhà
nước Văn Lang.
HS:
- Xã hội đã có sự phân chia
người giàu, người nghèo.
- Nghề nông và cuộc sống ở các
làng bản bị lũ lụt đe dọa.
- Giữa các vùng, các bộ lạc đã
xảy ra tranh chấp, xung đột hoặc bị giặc bên ngoài đe dọa.
GV: Muốn có an ninh, yên ổn làm ăn, phải có nhà nước => Sự ra
đời của nhà nước Văn Lang.
Hoạt động 2
GV: Bộ lạc Văn Lang sống ở đâu?
HS: Cư trú…hùng mạnh nhất.
GV xác định trên lược đồ:
-
Vùng sông Cả (Nghệ An)
-
Sông Mã (Thanh
Hóa )
- Đặc biệt khu vực Sông Hồng: từ
Ba Vì (Hà Tây) đến Việt Trì (Phú Thọ) nơi Bộ lạc Văn Lang sinh sống là phát
triển hơn cả, Vì sao? Vì: Ở đây có Làng Cả (Việt Trì - Phú Thọ) chuyên làm
nghề đúc đồng nên nền kinh tế sớm phát triển hơn cả, dân cư tập trung đông
đúc. Nhờ vậy tù trưởng bộ lạc Văn Lang ở đây được các tù trưởng ở các vùng
khác ở xung quanh tôn trọng và ủng hộ.
GV: Dựa vào thế mạnh của mình thủ lĩnh bộ Lạc Văn Lang đã làm gì?
HS: Đã hợp nhất các bộ lạc khác trong vùng thành một liên minh Bộ
lạc (1 nước). Gọi là nhà nước Văn lang.
GV: Nhà nước Văn lang ra đời vào thời gian nào? Đứng đầu là ai? Đóng
đô ở đâu?
HS: Thế kỉ VII TCN, thủ
lĩnh Bộ Lạc Văn Lang đứng đầu nhà nước, tự xưng là Hùng Vương đóng đô ở Bạch
Hạc.
GV giải thích :
- Đặt tên nước là Văn Lang (tên
của Bộ lạc gốc)
- Hùng là mạnh, Vương là vua
(Là đất nước Hùng mạnh )
GV: Truyền thuyết nào phản ánh cội nguồn dân tộc của ta? (Con
rồng cháu tiên)
GV liên hệ truyền thuyết “Con rồng cháu tiên”.
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt
truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản
ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ
lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV: Sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ nói lên điều gì?
HS: Nêu theo suy nghĩ của mình.
GV: Truyền thuyết nói về việc 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên Vùng
cao đã tôn thờ người anh Cả lên làm vua, hiệu Hùng Vương đặt tên nước là Văn
Lang. Sự ủng hộ của mọi người và vị trí của nước Văn Lang ở vùng cao. → Đây
là một cách phản ánh quá trình hình thành của nhà nước Văn Lang với ý nghĩa
đại diện cho cả cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta.
GV mở rộng: Ngoài các câu chuyện kể nói trên, em hãy cho biết còn
có những câu chuyện nào nói về sự thành lập và tổ chức của Nhà nước Văn Lang?
GV liên hệ truyền thuyết “Quả
dưa hấu” và “Sự tích bánh chưng, bánh
dầy”.
Gọi 1 học sinh kể tóm tắt
truyện, sau đó GV cho HS xem đoạn clip kể chuyện, từ đó rút ra ý nghĩa phản
ánh của câu chuyện. (Phần này được mô tả cụ thể trong phần phụ
lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV: Tất cả các câu chuyện, truyền thuyết kể trên đều phản ánh sự
tồn tại trong thực tế Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu tiên trong lịch sử dân
tộc với những nét văn hóa mang đậm tính dân tộc, được lưu truyền đến ngày nay
thông qua các mẫu chuyện lịch sử.
Vậy, Nhà nước Văn Lang đã được tổ chức như thế nào? Chúng ta bước
sang tìm hiểu phần 3.
Hoạt động 3
Thảo
luận nhóm:
Dãy 1: Tìm hiểu về sơ đồ và
cách tổ chức của Nhà nước Văn Lang.
Dãy 2: Nhận xét về tổ chức Nhà
nước Văn Lang.
Sau đó, GV sẽ gợi ý các câu hỏi
giúp HS khai thác tư liệu và hoàn thành sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang.
-> Nhận xét tổ chức Nhà
nước.
Các câu hỏi:
? Đứng đầu bộ máy nhà nước ở
trung ương là ai? (Hùng Vương)
? Giúp việc cho Hùng Vương là
những ai? Thế nào là Lạc Hầu, Lạc Tướng?
(+ Lạc hầu (Tướng văn): chỉ
những người thuộc tầng lớp quý tộc có chức vụ cao cấp, giúp vua Hùng trông
coi việc chính sự.
+ Lạc tướng (Tướng võ): chỉ
những người thuộc tầng lớp quý tộc, được vua Hùng cho đứng đầu các Bộ.)
? Khi Hùng Vương lên ngôi đặt tên nước Văn Lang, chia cả nước làm
mấy bộ?
(Chia nước làm 15 bộ, mỗi bộ
gồm nhiều chiềng chạ, đứng đầu bộ là Lạc tướng. Các bộ đều chịu sự cai quản
của vua.)
- GV giới thiệu 15 bộ.
? Dưới Bộ có các cơ quan nào?
Ai đứng đầu?
(Chiềng, chạ: đứng đầu là Bồ
Chính)
? Giúp việc cho Bồ chính còn có
ai?
(Giúp việc cho Bồ chính ở các
chiềng chạ có những người già, có uy tín và đầy kinh nghiệm.)
GV cho HS xem sơ đồ Nhà nước
Văn Lang hoàn chỉnh và tóm lại (HS ghi bài)
(Sơ đồ được cụ thể hóa trong
phần phụ lục 2 của đề tài nghiên cứu này)
GV trình bày: Nhà nước Văn Lang được chia làm 3 cấp:
+ Trung ương: do Hùng Vương
đứng đầu có Lạc hầu, Lạc tướng giúp.
+ Bộ là cơ quan trung gian giữa
trung ương và địa phương do Lạc tướng đứng đầu.
+ Địa phương là các chiềng, chạ
do Bồ chính đứng đầu.
GV: nhận xét sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang?
(- Vua đứng đầu nắm mọi quyền
hành, cha truyền con nối.
- Tổ chức còn đơn giản, chưa có
luật pháp, quân đội nhưng nó là một tổ chức quản lí đất nước bền vững, đánh
dấu giai đoạn mở đầu thời kì dựng nước.)
GV: Nhà nước Văn Lang chưa có luật pháp và quân đội. Vậy khi có
việc xảy ra hoặc có giặc ngoại xâm thì sẽ làm sao?
GV: Về những việc xảy ra tùy theo việc đều có người giải quyết
nhưng người có quyền hành cao nhất là Hùng Vương. Khi có chiến tranh sẽ huy
động các thanh niên trai tráng khỏe mạnh trong các chiềng, chạ tập hợp lại
cùng chiến đấu.
GV tóm lại: Nhà nước Văn Lang tuy đơn giản nhưng đã là tổ chức
chính quyền cai quản đất nước (đã có các cấp từ trung ương cho đến làng xã, có
người chỉ huy cao nhất và có người chỉ huy từng bộ phận).
GV: Hùng Vương là người có công dựng nước, để tưởng nhớ công ơn
đó người dân đã làm gì?
HS: - Lập đền thờ vua Hùng (H.35/SGK)
-
Làm giổ tổ Hùng Vương
-
Đặt tên cho các con đường,các ngôi trường (Trường
THPT chuyên Hùng Vương)
GV: Ngày giỗ tổ Hùng Vương là ngày nào?
HS: 10/3 âm lịch.
GV yêu cầu HS đọc 2 câu thơ nói về ngày giỗ tổ Hùng Vương
HS: “Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng
10 – 3”
GV: Bác Hồ đã căn dặn đều gì nhân dịp về thăm đền vua Hùng (Phú
Thọ)? Cho biết ý nghĩa của câu nói đó?
HS: “Các vua Hùng đã có
công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
GV: Vua Hùng là người dựng nên nhà nước Việt Nam đầu tiên. Trách
nhiệm của thế hệ sau, đặc biệt là thế hệ trẻ của chúng ta, phải ra sức học
tập, cống hiến sức trẻ cho quê hương đất nước, xây dựng đất nước tươi đẹp, giàu
mạnh và văn minh.
|
1. Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào?
- Hình thành những bộ lạc lớn.
- Mâu thuẫn giữa người giàu và
người nghèo ngày càng sâu sắc.
- Nhu cầu trị thủy, bảo vệ mùa
màng.
- Nhu cầu giải quyết xung đột,
chống ngoại xâm.
→ Nhà nước Văn Lang ra đời.
2. Nước Văn Lang thành lập
- Vào khoảng thế kỉ VII TCN,
thủ lĩnh Văn Lang đã hợp nhất các bộ lạc thành một nước:
+ Đặt tên nước Văn Lang
+ Tự xưng là Hùng Vương
+ Đóng đô ở Bạch Hạc (Phú Thọ)
3. Nhà nước Văn Lang được tổ chức như thế nào?
* Sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn
Lang (HS vẽ sơ đồ trong SGK)
* Nhận xét:
- Còn đơn giản.
- Chưa có luật pháp và quân đội.
-> Đánh dấu giai đoạn mở đầu
của thời kì dựng nước.
|
* GV tóm lại: Sự ra đời của Nhà
nước Văn Lang có ý nghĩa rất quan trọng đối với người Việt Nam. Người Việt Nam
đã có một nhà nước riêng do mình thành lập và làm chủ, không còn là những làng
bản, chiềng chạ riêng lẻ, không có quan hệ gì với nhau.
3. Củng cố bài giảng: Trò chơi giải ô
chữ.
4. Hướng dẫn học tập ở nhà:
- Học bài, Vẽ sơ đồ bộ máy nhà
nước vào tập.
- Đọc trước Bài 13: “Đời sống vật
chất và tinh thần của cư dân Văn lang”.
D. RÚT KINH NGHIỆM:
………………………………………….......................................…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………........................
DUYỆT CỦA BGH
Ngày 05 Tháng 11 Năm 2015
Phụ lục 2: Các câu chuyện được sử dụng trong bài và khai thác kiến thức
lịch sử, ý nghĩa của các câu chuyện.
SƠN TINH THỦY TINH
* Truyện kể:
Thuở ấy, vua Hùng Vương thứ 18 có một cô con gái rất
xinh. Vua muốn chọn chàng rể vừa hiền, vừa tài, nên truyền lệnh mở hội kén rể.
Trai tráng khắp nơi nô nức kéo về kinh đô thi tài. Đã mấy ngày qua, biết bao
nhiêu chàng trai tuấn tú, võ nghệ tài ba lần lượt ra trổ tài, nhưng vẫn chưa
được nhà vua ưng chọn. Vua đã hơi thất vọng thì bỗng nhiên có hai người cùng
một lúc tiến vào xin thi tài, một người tên là Sơn Tinh, còn người kia tên là
Thủy Tinh. Vua truyền cho hai người cùng trổ tài. Lời vua truyền vừa dứt, Thủy
Tinh đã vội ra oai, gây sấm sét đùng đùng, mây tuôn gió nổi, bốn bề nước đổ,
trời đất tối tăm. Cả một vùng đất rung chuyển, thật là rùng rợn. Đến lượt Sơn
Tinh liền khoan thai vẫy tay hóa phép dời núi, đổ cây, phá rừng vung đất chống
lại trận nước dâng lên của Thủy Tinh. Sơn Tinh giơ gậy thần chỉ bốn phương, lập
tức cảnh vật trở lại bình thường, trời trong, sông lặng, cây cỏ xanh tươi.
Vua Hùng thấy hai người cùng tài giỏi không biết nên
gả con gái cho ai. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi phán rằng:
- Sơn Tinh và Thủy Tinh đều tài giỏi cả. Nhưng muốn
lấy công chúa thì phải có lễ vật ra mắt ta! Vậy rạng sáng mai, ai đem của lạ
vật quý đến trước, ta sẽ gả con gái cho người ấy!
Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến dâng
vua, lễ vật của Sơn Tinh có voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao và
bao nhiêu vàng bạc, châu báu. Vua Hùng giữ lời hẹn gả công chúa cho Sơn Tinh.
Thủy Tinh cũng đem ngọc châu, đồi mồi, san hô, bao
giống tôm cá quý đến dâng vua. Nhưng Thủy Tinh đến chậm quá. Sơn Tinh đã rước
công chúa về núi mất rồi.
Thủy Tinh không lấy được công chúa nổi giận dâng nước
lên bao vây núi. Suốt ngày đêm, đất trời đen tối, mưa gió mịt mùng, đồng ruộng,
đất đai ngập nước.
Sơn
Tinh bình tĩnh tìm cách chống trả lại Thủy Tinh. Nước dâng cao bao nhiêu thì
Sơn Tinh lại hóa phép làm cho núi dâng cao lên bấy nhiêu. Quân của Sơn Tinh từ
trên núi ném đá tới tấp xuống nước làm cho quân lính của Thủy Tinh chết rất
nhiều. Xác cá, xác ba ba, thuồng luồng… nổi đầy mặt nước.
Thủy Tinh đánh mãi vẫn không thắng được Sơn Tinh. Cuối
cùng Thủy Tinh đành rút nước, lui quân về. Tuy vậy Thủy Tinh vẫn không quên
được chuyện xưa. Hàng năm cứ vào khoảng tháng bảy, tháng tám là Thủy Tinh lại
dâng nước lên đánh Sơn Tinh.
* Phân
tích truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh:
- Chi
tiết thể hiện hoạt động chống lũ lụt của nhân dân ta: “Nước dâng cao bao nhiêu,
núi cao lên bấy nhiêu” (Đắp đê phòng lũ lụt).
- Chi
tiết: “Hàng năm, Thủy Tinh đều mang quân đánh Sơn Tinh”: thể hiện thời gian
thường xuyên xảy ra các mùa lũ -> hoạt động đắp đê bảo vệ mùa màng của ông
bà ta.
- Sơn Tinh: Đây là nhân vật tượng trưng cho khát vọng và khả năng
khắc phục thiên tai của nhân dân ta thời xưa.
- Thủy Tinh: Đây
là nhân vật tượng trưng cho mưa bão, lũ lụt thiên tai uy hiếp cuộc sống của con
người.
* Ý nghĩa
truyện: phản ánh quá trình đoàn kết của nhân dân ta chống lại
thiên tai, lũ lụt, bảo vệ mùa màng và sự bình yên cho con người.
- Giải
thích nguyên nhân của hiện tượng lũ lụt hàng năm xảy ra ở đồng bằng Bắc Bộ.
- Thể hiện sức mạnh và ước mơ chiến thắng thiên nhiên của người Việt Cổ.
- Thể hiện sức mạnh và ước mơ chiến thắng thiên nhiên của người Việt Cổ.
- Suy tôn ca ngợi công
lao dựng nước của các vua Hùng.
- Xây dựng được những hình tượng nghệ thuật kì ảo mang ý nghĩa tượng trưng và khái quát cao.
- Xây dựng được những hình tượng nghệ thuật kì ảo mang ý nghĩa tượng trưng và khái quát cao.
TRUYỆN THÁNH GIÓNG
* Truyện kể:
Truyện kể rằng
vào thời Hùng Vương có một người đàn bà đã cao tuổi nhưng chưa có một mụn con,
bà phải sống một thân một mình. Một hôm sáng dậy bà đi thăm nương, bỗng nhìn
thấy một vết chân giẫm nát cả mấy luống cà. Bà sửng sốt kêu lên: - “Ôi! Bàn
chân ai mà to thế này!”.
Bà thấy lạ nên
đưa bàn chân ướm thử vào dấu chân lạ. Một thời gian sau bà bỗng có mang. Tận 12
tháng sau, bà sinh được một đứa con trai bụ bẫm đặt tên là Gióng. Nhưng thằng
bé lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi biết lẫy, cũng không
biết nói biết cười gì cả.
Ngày ấy có
giặc Ân kéo vào cướp nước ta. Giặc Ân rất hung hăng tàn ác, cầm đầu là một viên
tướng tên gọi Ân Vương, hình dung cổ quái dữ tợn. Chúng nó đi đến đâu là đốt
phá nhà cửa, giết người cướp của đến đấy. Quân đội Hùng Vương nhiều phen xuất
trận, nhưng đánh không nổi. Vua Hùng lấy làm lo lắng vội phái sứ giả đi khắp
nơi trong nước tìm bậc tướng tài để giúp vua cứu nước.
Một hôm sứ giả
đi đến làng chú bé Gióng. Nghe tiếng loa rao nói đến việc nhà vua cầu người
tài, bà mẹ Gióng đang ru con, liền bảo đùa con rằng:
- Con ơi! Con
của mẹ chậm đi chậm nói là vậy, thì biết bao giờ mới đi đánh giặc giúp vua được
đây!
Không ngờ
Gióng nhìn mẹ mở miệng bật lên thành tiếng:
- Mẹ cho gọi
sứ giả vào đây cho con!
Nói xong lại
im bặt. Bà mẹ vừa mừng vừa sợ, vội đi kể chuyện với xóm giềng. Mọi người đổ
tới, ai nấy cho là một sự lạ. Sau cùng một người nói:
- Ta cứ đi mời
sứ giả đến xem thử nó muốn cái gì.
Khi sứ giả của
nhà vua bước vào nhà nhìn thấy chú bé Gióng liền hỏi rằng:
- Mày là đứa
trẻ lên ba mới học nói, mày định mời ta đến để làm gì?
Gióng trả lời
rất chững chạc:
- Ông hãy về
bảo với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một giáp sắt và
một nón sắt, ta sẽ đánh đuổi quân giặc.
Ai nấy đứng
nghe khôn xiết lạ lùng. Cho là thần nhân xuất hiện, sứ giả lập tức phi ngựa về
tâu vua. Nghe nói, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt
lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời xin của chú bé. Mọi thứ rèn xong
nặng không thể tưởng tượng nổi. Hàng chục người mó vào thanh gươm mà không nhúc
nhích. Vua Hùng phải cho hàng ngàn quân sĩ tìm mọi cách chở đến cho chú bé
Gióng.
Khi được tin
quân sĩ khiêng ngựa sắt sắp đến làng, mẹ Gióng sợ hãi chạy về bảo con:
- Con ơi! Việc
nhà vua đâu phải là chuyện chơi. Hiện quân sĩ đang kéo đến ầm ầm ngoài bãi,
biết làm thế nào bây giờ?
Nghe nói thế,
Gióng vụt ngồi dậy, nói:
- Việc đánh
giặc thì mẹ đừng lo. Nhưng mẹ phải cho con ăn thật nhiều mới được!
Mẹ vội thổi
cơm cho con ăn, nhưng nấu lên được nồi nào Gióng ngốn hết ngay nồi ấy. Mỗi lần
ăn một nồi cơm thì Gióng lại lớn thêm một ít và đòi ăn thêm. Mẹ càng cho con ăn
thì con lại càng lớn như thổi, bỗng chốc đã thành một chàng thanh niên khỏe
mạnh. Hết gạo, bà mẹ đi kêu gọi xóm làng. Mọi người nô nức đem gạo, khoai,
trâu, rượu, hoa quả, bánh trái đến đầy một sân. Nhưng đưa đến bao nhiêu, Gióng
ăn vợi hết bấy nhiêu, mà vẫn đòi ăn không nghỉ.
Sau đó, Gióng
lại bảo mẹ:
- Mẹ kiếm vải
cho con mặc.
Dân làng lại
đua nhau mang rất nhiều vải lụa tới may áo quần cho Gióng mặc. Nhưng thân thể
Gióng lớn vượt một cách kỳ lạ, áo quần vừa may xong đã thấy chật, thấy ngắn,
lại phải mang vải lụa tới để chắp nối thêm. Không mấy chốc đầu Gióng đã chạm
nóc nhà. Ai nấy chưa hết kinh ngạc thì vừa lúc quân sĩ đã hì hục khiêng được
ngựa, gươm, áo giáp và nón sắt tới. Gióng bước ra khỏi nhà vươn vai một cái,
người bỗng cao to sừng sững, chân dài hơn trượng, hét lên một tiếng như tiếng
sấm:
- Ta là tướng
của nhà Trời!
Thế rồi Gióng
mặc giáp sắt, đội nón sắt, tay cầm gươm múa quanh mấy vòng. Đoạn từ biệt mẹ và
dân làng, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa sắt bỗng chồm lên, phun thẳng ra đàng trước
một luồng lửa đỏ rực. Gióng thúc chân, ngựa phi như bay, sải từng bước dài hàng
chục con sào, rung chuyển cả trời đất. Chỉ trong chớp mắt, ngựa đã xông đến đồn
trại giặc bấy giờ đang đóng la liệt cả mấy khu rừng. Lưỡi gươm của Gióng vung
lên loang loáng như chớp giật. Quân giặc xông ra chừng nào chết chừng ấy. Ngựa
thét ra lửa thiêu cháy từng dãy đồn trại, lửa thiêu luôn cả mấy khu rừng. Khói
bụi mịt mù, tiếng la hét kêu khóc như ri.
Nhưng tướng giặc
Ân Vương vẫn cố gào thét hô quân xáp tới, Gióng càng đánh càng khỏe, thây giặc
nằm ngổn ngang đầy rừng. Bỗng chốc gươm gãy. Không bối rối, Gióng thuận tay nhổ
những bụi tre hai bên đường quật tới tấp vào các toán giặc đang cố gắng trụ lại
theo lệnh chủ tướng. Chẳng mấy chốc quân giặc đã tẩu tán khắp nơi, Ân Vương bị
quật chết tan xác. Bọn tàn binh giặc lạy lục xin hàng. Quân đội của Hùng Vương
cũng như dân các làng chỉ còn việc xông ra trói nghiền chúng lại. Không đầy một
buổi, Gióng đã trừ xong nạn nước. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi
Sóc Sơn. Đến đây, Gióng bèn cởi giáp bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay
thẳng lên trời.
Để nhớ ơn
người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê và phong làm Phù Đổng
thiên vương.
Tới tận ngày nay
chúng ta còn thấy những dãy ao tròn nối nhau kéo dài suốt từ Kim Anh, Đa Phúc
cho đến Sóc Sơn, dân gian truyền nhau rằng đó là những vết chân ngựa của Thánh Gióng.
Khu rừng bị ngựa sắt phun lửa thiêu cháy nay còn mang cái tên là làng Cháy.
Loài tre mà Gióng nhổ quật vào giặc bị lửa đốt màu xanh ngả thành màu vàng và
có những vết cháy lốm đốm, ngày nay giống ấy vẫn còn, người ta gọi là tre là
ngà (hay đằng ngà).
* Phân tích truyện và ý nghĩa truyện
Thánh Gióng:
Truyện Thánh
Gióng quả thật có rất nhiều ý nghĩa mà ý nghĩa đầu tiên phải kể đến đó là lòng
yêu nước thiết tha, sâu đậm của mỗi người con xứ sở.
Truyện Thánh
Gióng có thể được xem như một cách mà ông cha ta tổng kết lịch sử các cuộc
chiến thắng chống ngoại xâm thời cổ đại. Nét đẹp của truyện ngày một được tô
đậm qua từng lời truyền miệng của nhân dân để rồi qua thời gian, truyện trở nên
đẹp trong từng chi tiết và ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng: ông Thánh là hình
ảnh tượng trưng cho những người dân thuở ấy với những nét đẹp nhất, tiêu biểu
nhất, cao quý nhất của những người con yêu nước.
Đứa bé mới
ngày nào còn nằm trong nôi, hôm nay đã lãnh trọng trách đánh giặc. Khi lãnh
trọng trách đánh giặc, cứu nước thì vừa vươn vai một cái, nó đã hóa thành một
ông Khổng Lồ, to lớn và khỏe mạnh phi thường. Thế là dân làng đem cà mắm thật
nhiều, Gióng ăn cà mắm lại càng lớn mạnh hơn nữa, có sức nhổ cả một bụi tre để
làm vũ khí đánh giặc. Lột cái dáng vẻ thần thoại ra thì ta có thể nhận thấy
ngay rằng, sức mạnh này là sức mạnh của toàn dân, sức mạnh của lòng người – của
lòng yêu nước – một sức mạnh lớn lao, phi thường đang lớn lên cực kỳ nhanh
chóng mà không gì, không một thế lực hắc ám nào có thể đánh bại. Và tư tưởng
“toàn dân chung sức, đồng lòng đánh giặc” và cũng là một lối đánh truyền thống
nhưng không bao giờ lỗi thời qua thời gian, năm tháng đã được thể hiện rất rõ
tại đây. Mỗi con người đất Việt tuy bình thường trông có vẻ nhỏ bé nhưng đến
khi đất nước lâm nguy thì đều trở nên vĩ đại, phi thường, đều đóng một vai trò
quan trọng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Chắc hẳn nhân dân sáng tác và trau
dồi truyện thánh Gióng muốn nói rằng dân tộc ta một khi đứng trước một nhiệm vụ
lịch sử nặng nề, tưởng chừng như quá sức gánh vác của mình, thì, bởi sẵn lòng
yêu nước nồng nàn, bởi biết chung sức với nhau, bởi nhiều mưu trí và sáng tạo
mà vươn lên mau chóng cho kịp nhiệm vụ được giao. Thật vậy, suốt mấy ngàn năm
sau, Văn Lang, Âu Lạc đã dám đánh và thắng những kẻ xâm lược lớn mạnh hơn mình
gấp mấy chục lần.
Giặc tan, vị
anh hùng làng Gióng không về triều lĩnh thưởng mà giục ngựa lên núi Sóc, về
trời, hẹn khi nào đất nước lâm nguy thì sẽ trở lại giúp dân đánh quân xâm lược.
Bằng cử chỉ cao quý này, truyện muốn ca ngợi một chủ nghĩa yêu nước hoàn toàn
trong trắng không một hạt bụi danh vị hay một chút tư lợi cá nhân, ca ngợi một
tinh thần phục vụ vô điều kiện cho Tổ quốc, cho đồng bào. Ngoài ra, đứng trên
phương diện nhân vật Gióng, ta cũng có thể cảm nhận được một góc khác trong tấm
lòng của người anh hùng mà sâu xa hơn là chính mỗi người dân xứ sở: bảo vệ đất
nước là trách nhiệm, là bổn phận của mỗi người dân và độc lập, tự chủ chính là
phần thưởng lớn nhất, cao quý nhất mà không ai có thể ban cho ngoài chính bản
thân mỗi người.
CHỬ ĐỒNG TỬ - TIÊN DUNG
* Truyện kể:
Thời Hùng Vương thứ ba có một người con
gái nhan sắc như tiên, đặt tên là Tiên Dung. Tiên Dung rất đẹp, song tự nguyện
không lấy chồng, chỉ ham thích phong cảnh, thường đi du lịch khắp nơi trong
nước. Được vua cha nuông chiều, mỗi năm vào độ mùa xuân Tiên Dung ngồi thuyền
du ngoạn, có khi ra tận ngoài biển, lắm lúc mê cảnh đẹp quên về.
Thuở ấy, ở làng Chử Xá (thuộc tỉnh Hưng
Yên ngày nay) có người tên là Chử Cù Vân và con trai tên là Chử Đồng Tử. Hai
cha con thương mến nhau rất thắm thiết. Nhà họ Chử vốn nghèo lại càng thêm sa
sút sau một trận cháy, trong nhà chỉ còn mỗi một chiếc khố. Hai cha con phải
thay phiên nhau mà mặc mỗi khi ra ngoài. Khi người cha bị bệnh nặng sắp mất,
dặn con giữ khố lại, còn cứ chôn mình xác trần. Chử Đồng Tử không nỡ để cha
chết trần truồng, dùng chiếc khố độc nhất liệm cha mà đem chôn. Từ đó Chử Đồng
Tử không có gì che thân, đợi đến đêm mới đi ra câu cá, ban ngày thì dầm nửa
người dưới nước, đến gần thuyền để bán cá hoặc xin ăn.
Một hôm, thuyền rồng chở công chúa Tiên
Dung đến vùng đó. Nghe tiếng chuông trống, đàn sáo lại thấy cờ quạt, người hầu
rầm rộ, Chử Đồng Tử hoảng sợ, chui vào bụi lau ở bãi cát bờ sông, nấp mình
xuống đó rồi phủ cát lên che người.
Thuyền rồng ghé vào bờ, Tiên Dung lên chơi trên bãi, thấy cảnh thanh tú, sai người hầu quây màn ở bụi lau để làm nơi cho mình tắm, đúng ngay vào chỗ Chử Đồng Tử nấp. Đến khi Tiên Dung xối nước, cát trôi để lộ thân hình trần truồng của người trai lạ. Nàng ngạc nhiên hỏi chuyện mới rõ tình cảnh của Chử Đồng Tử, nghĩ ngợi bảo chàng:
Thuyền rồng ghé vào bờ, Tiên Dung lên chơi trên bãi, thấy cảnh thanh tú, sai người hầu quây màn ở bụi lau để làm nơi cho mình tắm, đúng ngay vào chỗ Chử Đồng Tử nấp. Đến khi Tiên Dung xối nước, cát trôi để lộ thân hình trần truồng của người trai lạ. Nàng ngạc nhiên hỏi chuyện mới rõ tình cảnh của Chử Đồng Tử, nghĩ ngợi bảo chàng:
- Tôi đã định không lấy chồng, nay tình cờ
gặp anh thế này, chắc do là trời xui khiến. Anh dậy mà tắm rửa đi!
Rồi Tiên Dung lấy quần áo trao cho Chử
Đồng Tử mặc để cùng xuống thuyền ăn uống. Người ở trên thuyền hiểu chuyện, cho
là một cuộc gặp gỡ lạ lùng. Tiên Dung nghĩ là duyên tiền định, đòi kết làm vợ
chồng. Chử Đồng Tử cho là phận mình thấp hèn, không dám nhận lời, Tiên Dung
nói:
- Đây là do trời tác hợp, sao anh lại từ
chối?
Rồi hôn lễ giữa nàng công chúa với anh
chàng Chử Đồng Tử cử hành ngay trên sông. Tin đưa về kinh đô, Hùng Vương giận
dữ nói với triều thần:
- Con gái ta không kể danh tiết, hạ giá
lấy kẻ nghèo hèn, còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữa. Từ nay mặc cho nó muốn
đi đâu thì đi, không được về cung.
Tiên Dung biết vua cha tức giận, sợ không dám về, bèn cùng chồng
mở chợ ở Hà Thám, đổi chác với dân gian. Lâu dần mở mang thành chợ lớn, gọi là
chợ Hà Thám, có phố xá khách buôn nước ngoài lui tới giao thương ngày càng phồn
thịnh.
Một hôm có khách buôn bán đến rủ Tiên Dung đem vàng cùng ra nước
ngoài mua hàng về bán sẽ có lãi to. Tiên Dung mới bảo chồng rằng:
- Chúng ta lấy nhau là do trời định, cơm
áo cũng do trời cho. Vậy việc này âu cũng là trời xui khiến, chúng ta nên làm.
Chử Đồng Tử bèn cùng khách buôn nọ ra đi.
Đến một hòn núi giữa biển gọi là núi Quỳnh Tiên, thuyền ghé lấy nước ngọt, Chử
Đồng Tử vui chân trèo lên cái am nhỏ trên núi gặp một đạo sĩ trẻ tên là Phật
Quang. Chuyện trò ý hợp tâm đầu, Chử Đồng Tử theo lời Phật Quang giao vàng nhờ
khách buôn đi mua hàng còn mình thì ở lại đây học đạo.
Đến khi thuyền trở lại, Chử Đồng Tử theo
về đất liền. Khi từ giã, Phật Quang tặng Chử Đồng Tử một cái gậy, một cái nón
và bảo:
- Đây là vật thần thông.
Về đến nhà Chử Đồng Tử truyền đạo lại cho
vợ. Tiên Dung giác ngộ bèn bỏ việc buôn bán để cùng chồng đi tìm thầy học đạo.
Một hôm trời tối, hai vợ chồng đi đã mệt
mà chưa thấy nhà cửa đâu, mới dừng bước lại, cầm gậy che nón nằm dưới mà nghỉ.
Vào khoảng nửa đêm, tự nhiên chỗ ấy nổi lên thành quách, cung điện bằng châu
ngọc và kho tàng đầy đủ của cải, màn gấm chiếu hoa, không thiếu một thứ gì. Lại
thêm tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ lính hầu xum xít quanh hai vợ chồng.
Sáng hôm sau, dân ở quanh vùng đều lấy làm
kinh dị, mang hương hoa thực phẩm đến xin làm tôi. Họ vào thành thấy các quan
văn võ, lính tráng tấp nập đông đảo như một nước riêng.
Hùng Vương được tin báo cho là con gái làm
loạn, vội phái quân đi đánh.
Đoàn quân sĩ nhà vua gần tới nơi, bộ hạ
Tiên Dung xin ra chống cự, nàng cười mà bảo rằng:
- Tất cả mọi việc đều do ở trời chứ không
phải tự ta. Ta đâu dám cự lại phụ vương. Sống hay chết đều nhờ ở trời, dẫu ta
có bị phụ vương giết cũng không dám oán hận.
Trời đã tối, quân của Hùng Vương không kịp
tấn công, dừng lại đóng ở bãi Tự Nhiên, cách đối phương một con sông lớn. Đến
nửa đêm trời bỗng nổi bão, sóng gió cuồn cuộn, nhổ cây ở bãi, đại quân của Hùng
Vương rối loạn. Trong chốc lát thành quách cung điện và bộ hạ của hai vợ chồng
Tiên Dung đều bay cả lên trời. Sáng hôm sau, người ta kinh hãi thấy chỗ đó đã
hóa thành một cái đầm lớn. Dân chúng bèn lập đền thờ để cúng tế hàng năm, gọi
đầm ấy là đầm Nhất Dạ (Một đêm), thuộc phủ Khoái Châu tỉnh Hưng Yên.
* Ý nghĩa và phân tích truyện:
Chử Đồng Tử " là một
truyện cổ tích thần kì, có nhiều dị bản đậm sắc thần kỳ. Nó cũng thuộc đề tài về những kẻ hèn mọn
"lấy tiên, lấy công chúa...” được kể qua nhiều truyện cổ tích thần kì.
Truyện "Chử Đồng Tử" cũng vậy. Chử Đồng Tử mò cua, bắt cá, nghèo khổ,
một cái khố cũng không có, nhưng rất hiếu thảo, chân thật. Hạnh phúc cầm tay
rồi mà chàng vẫn bối rối, muốn chối từ. Với Tiên Dung thì nàng "gặp"
và lấy Chử Đồng Tử là do "duyên trời run rủi", là "tự trời xe
duyên". Qua đó, ta thấy truyện Chử Đồng Tử nói lên quan niệm của nhân dân
ta về vấn đề hôn nhân là do duyên số, đồng thời thể hiện ước mơ tự do và dân
chủ trong tình yêu, trong xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Tiên Dung đã chủ động kết
duyên với Chử Đồng Tử vượt qua lễ giáo và đẳng cấp, vượt qua mọi thử thách để
bảo vệ hạnh phúc.
Con người Việt Nam dù đi
đâu làm đâu cũng nhớ về cội nguồn, tìm mọi cách để giúp nước. Chử Đồng Tử và
Tiên Dung đã sống và hành động như vậy. Nhà sư Phật quang, cái nón và chiếc gậy
nhiệm màu, cung điện tự mọc lên, tự mất đi, Chử Đồng Tử và Tiên Dung bay lên
trời, Chử Đồng Tử giúp Triệu Quang Phục cái vuốt rồng.... đó là yếu tố hoang
đường, kì diệu... làm cho truyện cổ tích này vô cùng hấp dẫn. Các địa danh:
làng Chử Xá, bãi Tự Nhiên, đầm Nhất Dạ... Nay vẫn còn đó, làm cho truyện cổ
tích "Chử Đồng Tử" tuy mang màu sắc hư ảo, thần kì mà như thật, có
thật. Rất thú vị về những tên người, tên đất... ấy.
CON RỒNG CHÁU TIÊN
*
Truyện kể:
Thuở xa xưa ở miền Lạc Việt có một vị
thần, nòi rồng, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng, là con trai của nữ thần
Lạc Long Nữ nơi thuỷ cung tráng lệ. Lạc Long Quân có sức khoẻ phi thường, lắm phép lạ, đã
vì dân mà ra tay diệt Hồ Tinh, Ngư Tinh, Mộc Tinh và nhiều yêu quái khác. Thần
còn dạy dân biết cách trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn, chài lưới, cách làm nhà
để ở,...
Cũng thuở ấy, ở vùng núi phương Bắc có
nàng Âu Cơ, thuộc dòng dõi Thần Nông, tuyệt trần xinh đẹp. Nghe tin vùng đất
Lạc Việt phương Nam là một xứ sở nhiều hoa thơm cỏ lạ, Âu Cơ bèn du ngoạn tới
thăm.
Âu Cơ gặp Lạc Long Quân, người mến sắc, kẻ
tham tài, rồi yêu nhau, nên vợ nên chồng. Sau mối kỳ duyên hạnh ngộ, Âu Cơ đẻ
ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm đứa con trai khôi ngô, tuấn tú tuyệt
trần. Cuộc sống đang diễn ra vô cùng hạnh phúc, thì một hôm Lạc Long Quân nói
với Âu Cơ rằng: Ta vốn nòi rồng ở nước, nàng là dòng tiên ở non cao. Khó ở với
nhau một nơi lâu dài được. Ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển; nàng sẽ đưa năm
mươi con lên núi, chia nhau trấn giữ các phương. Khi có đại sự nhớ giúp nhau, chớ
sai lời hẹn....
Âu Cơ đưa đàn con lên rừng núi sinh cơ lập
nghiệp. Người con trưởng được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô
tại Phong Châu, truyền ngôi mười mấy đời uy danh rạng rỡ bốn phương. Con cháu
ngày một thêm đông đúc.
Từ sự tích Trăm trứng này mà người Việt
Nam ta vẫn tự hào nhắc đến nguồn gốc dòng dõi của mình là con Rồng cháu Tiên.
* Ý nghĩa
truyện:
Truyện Con Rồng cháu Tiên là một huyền
thoại đẹp, giàu ý nghĩa. Nó giải thích, ca ngợi và khẳng định nguồn gốc, dòng
giống của con người Việt Nam ta vô cùng cao quý (dòng giống Rồng Tiên). Truyện
đã thể hiện một cách sâu sắc niềm tự tôn, tự hào dân tộc, khơi dậy tình yêu
thương, đoàn kết dân tộc trong tâm hồn mỗi con người Việt Nam chúng ta. Nó nhắc
nhở chúng ta rằng nghĩa đồng bào là cao cả, thiêng liêng.
Đúng như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
“... Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người ai trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ...”
(Đất nước - Trường ca mặt đường khát vọng)
SỰ TÍCH QUẢ DƯA HẤU
* Truyện
kể:
Ngày xưa, đất nước ta có núi cao, sông dài, biển rộng, trời đẹp nắng vàng, nhưng đồng ruộng thưa thớt, hoa quả chưa có nhiều thứ thơm ngọt như bây giờ. Thời đó, có một người tên là Mai An Tiêm vốn làm ăn chăm chỉ, lại khéo tay, tháo vát nên được nhà vua yêu mến và nhận làm con nuôi. Một hôm, trong bữa tiệc thiết khách, Mai An Tiêm vui vẻ nói: - Nem công chả phượng của rừng của biển đều nhờ có tay người cầm cái nỏ, quăng cái lưới, đến cả hạt gạo ủ ra chén rượu này cũng do bàn tay con người làm nên cả. Một viên quan trong triều vốn ghen ghét An Tiêm bèn về tâu với Vua, Vua đùng đùng nổi giận, nói: - Đã thế, ta cho nó cứ thử trông cậy vào hai bàn tay xem có sống nổi không? Thế là một buổi sớm, vua ra lệnh đày cả nhà An Tiêm ra một hòn đảo hoang vu, không một bóng người. An Tiêm phải tìm một hốc đá để ở tạm. Từ đấy, hàng ngày, An Tiêm đi bắn chim, còn nàng Ba, vợ an Tiêm thì ra bờ biển mò ngao, bắt cá làm thức ăn. Bỗng một hôm, An Tiêm thấy một con chim xuất hiện trên hoang đảo. Con chim ăn một miếng quả lạ và nhả xuống những hạt nho nhỏ màu đen nhánh. An Tiêm nghĩ thầm: “ Quả mà chim ăn được thì chắc hẳn người cũng ăn được”. Chàng bèn nhặt những hạt đó và đem ươm vào một hốc đá rêu ẩm. Ít ngày sau, hạt đã nảy mầm đâm lá, bò tỏa ra khắp khoảnh đất. Hai vợ chồng An Tiêm sớm chiều chăm bón những cây lạ đó. Chẳng bao lâu, cây nở hoa, hoa kết thành quả. Đến lúc quả đã to, vỏ có màu xanh thẫm, An Tiêm cắt về rồi bổ ra thì thấy ruột quả màu đỏ tươi, cùi màu trắng và nhiều hạt màu đen nhánh. Cả nhà ăn đều thích vì quả có vị ngọt và thơm mát. An Tiêm gọi đó là quả dưa đỏ. Từ đấy, An Tiêm tiếp tục trồng thêm dưa. Giống dưa ngày càng sai, quả càng to, vị càng thơm ngọt. Cứ mỗi mùa hái quả, An Tiêm lại khắc tên mình vào mấy quả dưa rồi thả xuống biển, nhờ sóng biển đưa vào đất liền. Một hôm, có một chiếc thuyền ghé đến muốn đổi giống dưa quý để đem về bán trên đất liền. Từ đó, An Tiêm đổi được các thức ăn, đồ dùng thường ngày và còn làm được một cái nhà lá xinh xinh. Một ngày kia, có người dâng vua quả dưa lạ, vua ăn ngon miệng bèn hỏi thăm tung tích mới biết là do An Tiêm trồng ngoài hoang đảo. Vua ngẫm nghĩ thấy mình đã sai, liền cho thuyền ra đón gia đình An Tiêm. Hai vợ chồng An Tiêm mừng rỡ thu lượm hết những quả dưa chín và hạt giống đem về phân phát cho bà con hàng xóm và truyền dạy cách gieo trồng, chăm bón. Đó là nguồn gốc giống dưa hấu mà chúng ta ăn ngày nay.
* Ý nghĩa truyện: nói về tính tự lực cánh sinh, lao động vì bản thân
mình, vượt lên hoàn cảnh khó khăn.
|
SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG, BÁNH DẦY
* Truyện kể:
Ngày
xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định
truyền ngôi cho con.
Nhân
dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: "Con nào tìm được
thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua
cho".
Các
hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng
mình lấy được ngai vàng.
Trong
khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu (còn gọi là Lang
Liêu) có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất
sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.
Một
hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: "Này con, vật trong Trời
Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy
nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất.
Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh
thành".
Tiết
Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật
tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng.
Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Dầy. Còn lá xanh
bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc
con cái.
Đến
ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn
hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Dầy và Bánh
Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng
kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Dầy, Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh
ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ
18.
Kể
từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Dầy để
dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.
*
Ý nghĩa truyện Bánh chưng bánh giầy:
Hai
loại bánh giản dị đơn sơ, là sự chân thành của một vị hoàng tử nghèo hiếu thảo,
là hiện thân cho lòng biết ơn đối với thiên nhiên, bầu trời và đất mẹ. Là thành
quả sáng tạo trong lao động.
Nó
khen ngợi sự khéo léo và sáng tạo của một người lao động. Không thể sánh với
cao lương mỹ vị nhưng trên tất cả chính là sự hiếu thảo chân thành của Lang
Liêu.
Đó
là câu chuyện giáo dục đạo đức, là tấm lòng hiếu thảo của con cái đối với cha
mẹ, cha mẹ không cần các con mình phải biếu cao lương mỹ vị gì mà chỉ cần tấm
lòng của các con đối với mình mà thôi.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC VĂN LANG
Phụ lục 3: Đề và đáp án kiểm
tra sau tác động
ĐỀ KIỂM TRA KHẢO SÁT
Thực hiện: khối 6
Tiết PPCT: 14
Hình thức: Trắc nghiệm và Tự luận (3/7)
Trường THCS Nguyễn Văn Trỗi
Họ và tên:………………………….
Lớp:……………
|
KIỂM TRA KHẢO SÁT
Môn: LỊCH SỬ 6
Thời gian: 25 phút.
|
Điểm
|
PHẦN A: TRẮC NGHIỆM (Trắc nghiệm khách quan, nối cột và điền vào chỗ trống)
Câu 1: Nhà nước Văn Lang ra đời vào:
A. Khoảng thế kỉ VIII TCN
B. Khoảng thế kỉ VII TCN
C. Khoảng thế kỉ VI TCN
D. Khoảng thế kỉ V TCN
Câu 2: Kinh đô nhà nước Văn Lang ở đâu?
A. Việt Trì (Phú Thọ)
B. Bạch Hạc (Phú Thọ)
C. Đoan Hùng (Phú Thọ)
Câu 3: Theo truyền thuyết “Con rồng cháu
tiên”. Ai là người được suy tôn lên đứng đầu Nhà nước Văn Lang? Lấy hiệu là gì?
…………………………………………………………………………………..
Câu 4: Hãy nối các câu chuyện sau với ý nghĩa
mà nó phản ánh cho phù hợp:
Cột 1
|
Cột 2
|
1. Con rồng cháu tiên
|
A. Chống lũ lụt, thiên tai
|
2. Thánh Gióng
|
B. Trao đổi sản phẩm
|
3. Bánh Chưng Bánh giầy
|
C. Phong tục, tập quán lao động
|
4. Chử Đồng Tử- Tiên Dung
|
D. Nguồn gốc dân tộc
|
5. Quả dưa hấu
|
E. Chống giặc ngoại xâm
|
6. Sơn Tinh- Thủy Tinh
|
F. Phân hóa giàu nghèo trong xã hội
|
1 nối với........... 4 nối với...........
2 nối với........... 5 nối với...........
3 nối với........... 6 nối với...........
PHẦN B: TỰ LUẬN
Câu 1: Các câu
chuyện phản ánh những hoàn cảnh đưa đến sự ra đời của Nhà nước Văn Lang là
những câu chuyện nào, Em hãy kể tên câu chuyện và rút ra những hoàn cảnh ra đời
Nhà nước Văn Lang cho phù hợp?
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Câu 2: Hoàn thành
sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang? Nhận xét?
Câu 3: Khi đến
thăm Đền Hùng (Phú Thọ), Bác Hồ đã căn dặn điều gì? Ý nghĩa của lời căn dặn đó
và trách nhiệm đối với thế hệ trẻ hiện nay?
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
............................................................................................................................................................................................................................................................................
ĐÁP ÁN
PHẦN A: TRẮC NGHIỆM
Câu 1:
B (0.5đ)
Câu
2: B (0.5đ)
Câu
3: Người anh cả theo mẹ Âu Cơ lên vùng núi cao lên làm vua, lấy hiệu Hùng
Vương. (0.5đ)
Câu
4: Mỗi ý nối đúng đạt 0.25đ
1-
D
2-
E
3-
C
4-
F
5-
B
6-
A
PHẦN B: TỰ LUẬN
Câu 1:
* Các câu chuyện phản ánh hoàn cảnh ra đời
của Nhà nước Văn Lang và ý nghĩa của nó:
- Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh -> nhu
cầu đấu tranh chống thiên tai, bão lụt, bảo vệ mùa màng.
- Truyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung -> sự
phân chia người giàu – người nghèo trong xã hội.
- Truyện Thánh Gióng -> Nhu cầu đấu
tranh chống ngoại xâm và giải quyết xung đột giữa các bộ lạc.
Câu 2:
Sơ đồ tổ chức Nhà nước Văn Lang:
Nhận xét: còn sơ khai, đơn giản, nhưng đã là một tổ chức cai quản đất nước.
Câu 3:
* Bác Hồ căn dặn: “ Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác
cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
* Ý nghĩa: Vua Hùng là
người dựng nên nhà nước Việt Nam đầu tiên. Trách nhiệm của thế hệ sau, đặc biệt
là thế hệ trẻ của chúng ta, phải ra sức học tập, cống hiến sức trẻ cho quê
hương đất nước, xây dựng đất nước tươi đẹp, giàu mạnh và văn minh.
Phụ lục 4: Bảng điểm kiểm tra trước và sau tác động của nhóm đối chứng
và nhóm thực nghiệm
Bảng điểm lớp
6A3 ( Nhóm đối chứng)
|
|
|
|
|
STT
|
Họ
|
Tên
|
Điểm kiểm tra trước tác động
|
Điểm kiểm tra sau tác động
|
|
|
|
|
|
1
|
Lê Việt Bảo
|
Anh
|
6
|
7
|
2
|
Phạm Thị Kim
|
Anh
|
7
|
6
|
3
|
Phạm Việt
|
Bảo
|
6
|
6
|
4
|
Bùi Thanh
|
Bình
|
6
|
5
|
5
|
Nguyễn Thành
|
Chính
|
5
|
7
|
6
|
Nguyễn Hữu
|
Đạt
|
8
|
6
|
7
|
Trương Công
|
Đức
|
5
|
7
|
8
|
Nguyễn Ngọc
|
Hà
|
7
|
8
|
9
|
Nguyễn Nhật
|
Hào
|
8
|
7
|
10
|
Nguyễn Đình
|
Hận
|
5
|
7
|
11
|
Nguyễn Minh
|
Hiếu
|
7
|
6
|
12
|
Mai Thị Thanh
|
Huệ
|
8
|
9
|
13
|
Lê Bá
|
Huy
|
4
|
5
|
14
|
Nguyễn Trần Đình
|
Huy
|
7
|
6
|
15
|
Võ Quốc
|
Huy
|
5
|
6
|
16
|
Dương Việt
|
Hưng
|
6
|
5
|
17
|
Nguyễn Lê
|
Kỷ
|
5
|
7
|
18
|
Nguyễn Thị Trúc
|
Lan
|
7
|
6
|
19
|
Nguyễn Thị Mỹ
|
Linh
|
7
|
7
|
20
|
Chu Hương
|
Ly
|
7
|
8
|
21
|
Bùi Thị Ái
|
My
|
5
|
8
|
22
|
Nguyễn Bá phương
|
Nam
|
7
|
7
|
23
|
Nguyễn Hồ Thanh
|
Ngân
|
8
|
6
|
24
|
Cao Thiện
|
Nhân
|
7
|
7
|
25
|
Trần Thị Ngọc
|
Nhi
|
6
|
9
|
26
|
Nguyễn Thịnh
|
Phát
|
6
|
7
|
27
|
Tô Văn
|
Phụng
|
6
|
6
|
28
|
Lê Thị Kim
|
Phượng
|
6
|
6
|
29
|
Dương Thị Tuyết
|
Sương
|
4
|
6
|
30
|
Lê Trương Tấn
|
Sỹ
|
8
|
9
|
31
|
Trương Minh
|
Thành
|
7
|
7
|
32
|
Quách Thị
|
Thắm
|
5
|
5
|
33
|
Hoàng Phước
|
Thiện
|
8
|
8
|
34
|
Đinh Văn
|
Thịnh
|
6
|
8
|
35
|
Phạm Thị Kim
|
Tho
|
6
|
7
|
36
|
Lê Cẩm
|
Thúy
|
7
|
8
|
37
|
Nguyễn Ngọc
|
Thương
|
5
|
6
|
38
|
Dương Văn
|
Tốt
|
4
|
6
|
39
|
Võ Ngọc Bảo
|
Trân
|
7
|
8
|
40
|
Trần Huy
|
Vũ
|
5
|
6
|
41
|
Trang Ngọc
|
Xuyến
|
8
|
8
|
42
|
Phan Thị Ngọc
|
Ý
|
6
|
7
|
Bảng
điểm lớp 6A10 ( Nhóm thực nghiệm)
STT
|
Họ
|
Tên
|
|
|
Điểm kiểm tra trước tác động
|
Điểm kiểm tra sau tác động
|
|||
1
|
Đỗ Đăng
|
Bảo
|
7
|
9
|
2
|
Lê Văn
|
Bình
|
7
|
9
|
3
|
Nguyễn Thanh
|
Bình
|
8
|
9
|
4
|
Lê Thị Ngọc
|
Châm
|
7
|
8
|
5
|
Vương Đình
|
Duy
|
7
|
9
|
6
|
Dương Văn
|
Dự
|
8
|
9
|
7
|
Nguyễn Thị Ngọc
|
Giàu
|
7
|
7
|
8
|
Võ Thị Ngọc
|
Giàu
|
7
|
8
|
9
|
Nguyễn Thị Ngọc
|
Hân
|
6
|
10
|
10
|
Lê Thanh
|
Hiếu
|
8
|
10
|
11
|
Nguyễn Thị
|
Hồng
|
5
|
8
|
12
|
Nguyễn Võ Nhật
|
Huy
|
6
|
8
|
13
|
Nguyễn Quốc
|
Kiệt
|
7
|
8
|
14
|
Lữ Hoàng
|
Kim
|
8
|
7
|
15
|
Nguyễn Minh
|
Luân
|
6
|
6
|
16
|
Nguyễn Thị Cẩm
|
Ly
|
7
|
9
|
17
|
Dương Thị Vạn
|
Lý
|
5
|
8
|
18
|
Nguyễn Thị Diễm
|
Mi
|
6
|
7
|
19
|
Phạm Quang
|
Minh
|
6
|
9
|
20
|
Nguyễn Minh
|
Nam
|
6
|
8
|
21
|
Nguyễn Thế
|
Ngọc
|
7
|
8
|
22
|
Thân Bảo
|
Ngọc
|
6
|
8
|
23
|
Nguyễn Đình
|
Nguyên
|
6
|
6
|
24
|
Võ Đại
|
Nhân
|
6
|
8
|
25
|
Trần Đình Yến
|
Nhiên
|
5
|
7
|
26
|
Nguyễn Thị Tuyết
|
Nhung
|
6
|
6
|
27
|
Nguyễn Hồng
|
Phúc
|
5
|
5
|
28
|
Nguyễn Bất
|
Phục
|
5
|
6
|
29
|
Đào Xuân
|
Phương
|
2
|
7
|
30
|
Mai Hoài
|
Thanh
|
5
|
7
|
31
|
Nguyễn Thái
Trang
|
Thanh
|
5
|
9
|
32
|
Nguyễn Quang
|
Thái
|
6
|
9
|
33
|
Mai Minh
|
Thắng
|
9
|
8
|
34
|
Nguyễn Văn
|
Thắng
|
9
|
7
|
35
|
Đoàn Thị Ngây
|
Thơ
|
7
|
7
|
36
|
Nguyễn Thị Anh
|
Thư
|
6
|
8
|
37
|
Phan Thanh Minh
|
Thư
|
5
|
9
|
38
|
Lê Thị Thùy
|
Trang
|
5
|
9
|
39
|
Nguyễn Thị Hồng
|
Trang
|
7
|
10
|
40
|
Phạm Văn
|
Tú
|
6
|
5
|
41
|
Lê Lâm
|
Tường
|
7
|
6
|
Phụ lục 5: Một số bài kiểm tra của học sinh
NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ CỦA TRƯỜNG THCS NGUYỄN
VĂN TRỖI
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
CỦA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỊ XÃ THUẬN
AN
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ
CỦA SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BÌNH DƯƠNG
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
loading...
0 nhận xét:
Post a Comment